Một cựu chiến binh Hoa Kỳ vô gia cư ở Houston. Ảnh lấy ở trên internet, chỉ có tính chất minh họa |
Cứ đến cuối
tháng Tư, là toàn thể người dân Việt Nam đều có những cảm xúc có thể nói là đủ
các chiều về những ngày lịch sử - về một cuộc chiến tranh tưởng đã lùi xa mà
không hề nguôi ngoai. Như cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói: “Triệu người vui thì
có triệu người buồn”. Đi ra đường chúng ta thấy cờ hoa rợp trời, từ mấy hôm trước
các ông tổ trưởng dân phố đã đi nhắc các nhà treo cờ… “hòa với không khí háo hức
chung của những ngày vui của toàn dân tộc”…
… và cái gì
cũng có hai mặt của nó, chiến thắng có thể vinh quang, huy hoàng đấy, nhưng
luôn luôn có những góc khuất. Tuần trước một người bạn vong niên, mình gọi bằng
chú, có viết về việc bài phát biểu “đầu hàng” của Dương Văn Minh ngày 30 tháng
Tư 1975 được Trung tướng Phạm Xuân Thệ (lúc đó còn là đại úy), viết – nhưng từ
ngày đó đã có một phóng viên người Đức viết lại về sự kiện này, là người viết
chính thức là Đại tá Bùi Lâm (tờ giấy không được giữ lại). Đó là một trong những
góc khuất của cuộc chiến. Nhiều “ông anh, ông chú” cứ tháng Tư lại đi thăm chiến
trường xưa, gặp lại đồng đội cũ mà mừng tủi, nhưng chính họ cũng phải thừa nhận
rằng đồng đội nhiều người nghèo, khổ quá, đến mức cơ cực. Đó cũng lại là góc
khuất của cuộc chiến. Đảng và Nhà nước ta có phải lo được cho tất cả mọi người
đâu, có phải ai bước ra khỏi cuộc chiến tranh cũng ở lại tiếp quản miền Nam,
sau này có chức vụ, có nhà cửa… đâu. Phần lớn những người nông dân chân đất vào
lính, lại quay trở lại làm nông dân và chân đất vẫn hoàn chân đất.
Ngay cả Mỹ
cũng thế thôi, chẳng đầy cựu chiến binh không được đãi ngộ một cách thỏa đáng –
đâu cũng thế cả, ta nghèo hơn, ít chu đáo hơn, cũng là bình thường.
Hôm nay xin kể
một câu chuyện nghe được, từ một người đúng trong hoàn cảnh đó. Chuyện tương tự
như thế này có thể nhiều người lớn tuổi biết, nhưng sẽ có nhiều bạn trẻ không
được biết, ngay cả mình, trung trung tuổi rồi, còn không biết. Do đó, xin kể lại
trung thực, không thêm bớt, và do đó, sẽ không chịu trách nhiệm về tính xác thực
của câu chuyện.
Chiều nào đi
đón con ở đầu đường, nơi xe bus trường đưa về, cũng đứng tán chuyện với mấy bác
xe ôm. Trong số đó, có một bác tầm ngoài 60 tuổi, dáng dấp khá thanh niên, có
nét gì đó ngang tàng và phong trần. Mình nghi, bác này bộ đội cũ, và ở tầm tuổi
đó thì phần nhiều là bộ đội thời chiến tranh 1954 – 1975. Hỏi ra đúng thật, ông
bác tuổi Sửu sinh năm 1949, được gọi nhập ngũ đúng 18 tuổi năm 1967. Bác này là
dân Yên Phụ, khu Ba Đình, Hà Nội. Nhà đông chị em gái, mỗi mình bác này là con
trai. “Bị” gọi nhập ngũ thì phải đi thôi, chứ ông bác này không có thích đi, vì
ông ấy xác định đã đi, là chết.
Nghe không rõ
ba tháng hay sáu tháng huấn luyện ở mạn Hà Tây, toàn bộ lính Hà Nội được phát
quân trang mới, thay cho quần áo ga-ba-đin là đồ nilông mới cứng để chuẩn bị “đi
Bê” – và một phần ba số lính Hà Nội đó, từ chối không “đi Bê”. Không nhận quân
trang, không nhận nhiệm vụ, cũng không trốn… giáo dục thuyết phục chán, họ vẫn
từ chối.
Lý do đưa ra
thì nhiều: người thì nói thẳng thắn là tôi sợ chết, nhà chỉ có một mình con
trai, đáng nhẽ ra không bị gọi vẫn cứ gọi… người thì nói, tôi không sợ, nhưng
không đi đánh nhau, tôi không có cái lý tưởng đó; người thì bảo, tôi mà đi, tôi
trốn luôn, trong Nam dân sống sướng hơn… nhưng như thế ở nhà gia đình bị o ép,
khổ lắm, nên tôi sợ, không dám…
Đầu tiên, họ
được đưa vào diện “thu dung” – nghĩa là đơn vị đi sạch cả rồi, thì tất cả diện
được giữ lại để “giáo dục thuyết phục” đó, sẽ được tập trung lại từ nhiều đơn vị
khác nhau, tiếp tục cho học tập và huấn luyện. Họ được đưa đi xem xử án, đủ các
trường hợp. Có người lái xe, trên đường vào chiến trường, bán sạch cả xe hàng,
đi một đoạn rồi đốt xe về báo bị bom. Có người đào ngũ bị bắt. Có người bắn chết
đồng đội chỉ vì ghét. Thậm chí có ông gài mìn chết cấp trên do bị o ép hành hạ
nhiều quá…
Học tập đến
thế, mà họ vẫn không “sợ”, đến đợt đi “Bê”, lại tiếp tục từ chối lĩnh quân trang,
và từ chối vào chiến trường. Phải có đến hai, ba lần “thu dung” như thế. Về sau
số lượng còn tăng lên, vì số người “từ chối” của các đợt tiếp theo, lại được bổ
sung, và những người đã từ chối được một lần, sẽ từ chối mãi.
Cái gì cũng đến
giới hạn, quân đội cũng không phải là cái chỗ để thử thách nhau lòng kiên nhẫn.
Quân đội ra một cái quyết định gọi là “Quyết định loại ngũ” – nội dung nôm na
là “Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định không tiếp nhận hạng người này phục vụ
trong quân đội”, rồi cho mặc bộ quần áo đen, hai người lính dẫn đi khơi khơi về
tận địa phương mà giả lại – từ đó việc giáo dục quản lý ông thanh niên ngỗ ngược
này, thuộc về trách nhiệm của địa phương.
“Trả về địa
phương” cũng là như thế đấy.
Ảnh một bác xe ôm khác, rất "tương tự" nhân vật trong chuyện này |
Trả về địa
phương, nghĩa là cả gia đình mất sạch các loại quyền lợi, nhất là thời chiến,
cái gì cũng phải phân phối bằng tem phiếu. “Mất sổ gạo, mất tem phiếu” cũng là
đây – khổ thôi rồi là khổ, không thể đi làm được ở đâu, chẳng ai nhận cả, cả
gia đình ai cũng như thế. Nhưng cuộc sống mà, ai mà chẳng phải sống. Ông xe ôm
sống sót đến tận bây giờ, không nghề nghiệp, không chế độ, “không gì cả”. Nhưng
ông ấy sống sót, dù người đời đã có lúc sỉ nhục ông ấy và gia đình. Bây giờ, xã
hội đã trở nên thờ ơ hơn với những chuyện như vậy – kinh tế thị trường cũng có
mặt tích cực của nó, nó làm cho con người trở nên không cần quan tâm nhiều đến
những chuyện riêng tư của người khác, cũng như những chuẩn mực xã hội trước đây
coi là tốt đẹp. Đồng thời, càng ngày, người ta lại càng nhìn nhận khác đi về
cái gọi là quyền lựa chọn của con người, kể cả việc có hay không đi đánh nhau
cho một lý tưởng không phải của mình.
Hóa ra, bước
vào cuộc chiến, không phải lúc nào cũng có những người anh hùng, mà còn có cả
những người dám từ chối khả năng trở thành anh hùng. Cũng là một cách thể hiện
cái tôi, cái cá nhân của mình mà không phải ai cũng dám làm.
P.S. Mình có
chụp của ông bác xe ôm một số ảnh, nhưng sẽ không post lên mạng, cũng là một sự
tôn trọng cá nhân vậy.
Tham gia thảo
luận trên Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment