Wednesday, April 29, 2015

Liệu có một cuộc chạy đua vũ trang mới? - Phần 3

Năm 1991, Liên Xô tan rã đồng nghĩa với việc chấm dứt sự tồn tại của Khối Varsaw sau suốt gần 40 năm tồn tại như một đối trọng với NATO. Tưởng chừng sự mất cân bằng về tương quan quân sự thế giới sẽ được lập bằng cách tương tự như việc giải thể khối NATO; nhưng thực tế việc đó đã không diễn ra. NATO không ngừng mở rộng lãnh thổ của mình về phía Đông, bằng cách kết nạp thêm các thành viên mới là các nước trước đây là các Cộng hòa Xô-viết thuộc Liên Xô cũ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc, lực lượng của khối này ngày càng tiến sát biên giới với nước Nga.

Nước Nga với tư cách là nước được tiếp quản gần như tất cả những gì quan trọng nhất mà Liên Xô để lại như ghế trong Hội đồng bảo an của Liên Hiệp Quốc, gần như toàn bộ kho vũ khí hạt nhân và tên lửa tấn công chiến lược, các cơ sở công nghiệp quốc phòng chủ yếu… Năm 2007, tổng thống Nga V.Putin quyết định cho tiến hành trở lại những chuyến bay tuần tra của máy bay ném bom chiến lược tầm xa Tu-95 “Gấu”, một trong những hoạt động đặc trưng của thời kỳ chiến tranh lạnh và đã bị gián đoạn từ lâu. Đến nay, Tu-95 đã bay tuần tra sát không phận của NATO ở Bắc Âu nhiều chuyến, và đáng chú ý là gần đây đã bắt đầu bay tuần tra sát vùng biển Alaska của nước Mỹ và bay xuyên qua cả vùng Vịnh Mexico.

Chiếc Tu-95 vốn được coi là biểu tượng của thời kỳ chiến tranh lạnh, khi mà cuộc chạy đua vũ trang của Liên Xô với Hoa Kỳ lên đến cao trào. Được thiết kế và chế tạo bởi Tổ hợp hàng không đứng đầu là nhà thiết kế lừng danh Tupolev, nó đạt tới một số giải pháp kỹ thuật cực kỳ hiệu quả. Vào thời kỳ kỷ nguyên phản lực, mà Tupolev lại lựa chọn cho “Gấu” động cơ tuốcbin cánh quạt… Tu-95 là chiếc máy bay ném bom chiến lược đạt tầm bay xa thuộc hàng kỷ lục – 17.000 km không cần tiếp nhiên liệu và có một độ tin cậy cực cao và hết sức bền bỉ. Dự kiến không quân Nga sẽ còn tiếp tục sử dụng “Gấu” cho đến tận năm 2040. Từ khi nổ ra cuộc “Khủng hoảng Ukraine và Crimea,” Nga lại càng tăng cường hơn nữa các chuyến bay tuần tra của “Gấu” sát không phận các nước NATO. Không thể nói rằng những chuyến bay của “Gấu” không làm dấy nên những lo ngại của giới chức quân sự Phương Tây.

Từ năm 1989, Liên Xô từng sở hữu 12 đoàn tàu hỏa hạt nhân mang tên Skapel nhưng chúng đã ngừng hoạt động sau khi Nga và Mỹ ký hiệp ước START-2 năm 1993, theo lộ trình của hiệp ước này, các đoàn tàu hỏa hạt nhân cũng như những tuyến đường sắt cho chúng, sẽ được hủy (cho đến năm 2005 sẽ hoàn tất.) Từ năm 2009, Nga tuyên bố sẽ phục hồi lại dự án đoàn tàu hạt nhân Berguzins. Đầu năm nay, Nga thông báo chính thức về dự án này: Berguzins sẽ có 17 toa gồm các toa chỉ huy, điều khiển, căn hộ di động, 3 toa bệ phóng và các toa chở 6 tên lửa RS-24 (Yars), một loại tên lửa có 4 đầu đạn với sức công phá từ 0,4 đến 1,2 megaton. Lực lượng sẽ bao gồm 5 đoàn tàu như vậy, tương đương 5 trung đoàn tên lửa hạt nhân chiến lược.

Hiện nay dự án mới nhất và gây nhiều quan tâm của dư luận của Hải quân Liên bang Nga chính là hai chiếc tàu đổ bộ chở trực thăng Mistral do Pháp đóng, hiện nay chưa thể giao được hàng vì lệnh trừng phạt của Phương Tây áp dụng lên Nga. Hải quân Nga mà tiền thân là Hải quân Xô-viết vốn được biết đến nhiều với những chiếc tầu sân bay lớp “Đô đốc Kuznetsov,” lớn hơn những tàu đổ bộ tấn công của Hoa Kỳ nhưng nhỏ hơn tàu sân bay chạy bằng năng lượng nguyên tử của nước này. Khi Liên Xô tan rã, những tàu sân bay “Đô đốc Kuznetsov” này được sở hữu bởi Hải quân hai nước Nga và Ukraine – thực tế Ukraine chỉ lấy được 1 chiếc Variag và đã bán cái xác của nó cho Trung Quốc và trở thành tàu sân bay đầu tiên, chiếc Liêu Ninh của Hải quân Trung Quốc. Hải quân Nga đã được lên kế hoạch để có được ít nhất một tàu sân bay mới (không phải tầu chở trực thăng tấn công như Mistral) trong vòng vài năm tới… Thật đáng tiếc với Nga, năm ngoái khi nước ngày sáp nhập Crimea nhưng xưởng đóng tàu chiến của Liên Xô cũ tại biển Đen, lại không có trên lãnh thổ bán đảo này. Hiện nay, nhà máy vẫn thuộc về Ukraine…

Cuối năm 2014, Nga mở cửa cho phép các phóng viên vào tiếp cận “Trung tâm điều hành quốc phòng quốc gia” mới được khánh thành – dự án mới chỉ bắt đầu năm 2013 đã được hoàn thành trong một thời gian ngắn. Đánh giá về độ hiện đại của nó, người ta chỉ có thể nói là “kinh khủng” – có thể nói nhiều mặt nó vượt xa Trung tâm tương tự của Hoa Kỳ ở Lầu Năm Góc.

Nếu như chúng ta đặt tất cả những động thái này trong tương quan với các sự kiện “khủng hoảng Ukraine và Crimea” thì sao? Tại sao Nga lại dùng Tu-95 để bay tuần tra, khi mà ngoài những chức năng ưu việt của nó, thì “Gấu” còn nổi danh là “siêu ồn ào” khi mà Nga còn có máy bay ném bom chiến lược phản lực hiện đại hơn nhiều, chiếc Tu-160 “Blackjack”? “Gấu” Tu-95 ồn ào đến mức mà phi công NATO phản ánh khi bay bên cạnh để giám sát “Gấu”, họ không thể dùng điện đàm nói chuyện với trung tâm kiểm soát “nó quá ồn…” Hay tại sao lại là thông tin không giấu diếm về đoàn tầu hạt nhân chiến lược được phục hồi, lại công bố vào thời điểm này?

Về Tu-95 “Gấu” – chi phí cho những chuyến bay của nó khá rẻ nhưng cực kỳ hiệu quả, nhất là về mặt tâm lý, vì tính đa năng của “Gấu”: tuần tra, giám sát tầu ngầm đối phương và nhất là khả năng ném bom hạt nhân. Nghĩa là, sự “ồn ào” của nó tưởng là nhược điểm, nhưng trong trường hợp này lại là ưu điểm. Đánh giá về những chuyến bay của “Gấu,” Đô đốc Hoa Kỳ, tư lệnh Bộ Tư lệnh Phòng thủ Không gian Bắc Mỹ Bill Gortney đã phát biểu: “Đây là một thông điệp họ gửi cho chúng ta. Thông điệp đó là: chúng tôi (Nga) vẫn là một siêu cường của thế giới. Chúng ta phải làm một điều gì đó (để đáp trả)… những chuyến bay đó là bình thường (kể cả những chuyến bay qua vịnh Mexico) nhưng nếu cần ngăn chặn, thì chúng ta sẽ ngăn chặn chúng một cách hữu hiệu.”

Về những đoàn tàu hỏa hạt nhân chiến lược, thì chúng ta từ lâu đã biết Nga là nước có hệ thống đường sắt phát triển tương đối nhiều so với đường bộ, nhất là tiếp cận với các vùng Viễn Đông xa xôi. Việc phát triển đoàn tầu hạt nhân, đem lại tính cơ động cao hơn nhiều so với triển khai tên lửa trên các xe ô tô chuyên xa từ trung tâm nước Nga tới biên giới. Khả năng tiếp cận của tên lửa Nga tới biên giới nước Mỹ từ phía bờ Thái Bình Dương, là hoàn toàn có thể tính toán được, không cần phải là chuyên gia quân sự mà người bình thường chúng ta cũng có thể hình dung ra điều đó. Đây lại là một hành động hiệu quả nữa của Nga – rất tác dụng kể cả về chiến thuật quân sự lẫn hiệu quả tâm lý.


Trên biển, nước Nga cũng không ngồi yên mà khá chủ động trong việc khắc phục những yếu kém về Hải quân. Một mặt để nhanh chóng tiếp cận với công nghệ hiện đại, Nga không ngần ngại “outsourcing” đặt hàng tầu tấn công chở trực thăng Mistral của Pháp. Mặt khác để dần dần, từng bước phục hồi công nghiệp đóng tàu chiến, Nga ký hợp đồng với Ấn Độ khôi phục và tái trang bị cho chiếc tàu sân bay Đô đốc Gorshkov tại nhà máy đóng tàu Sevmash ở Bạch Hải, nó sẽ trở thành chiếc “Vikramaditya” của Hải quân Ấn Độ. Hợp đồng giá trị 1 tỷ đô-la Mỹ này có lợi cho cả hai bên: Nga từng bước phục hồi công nghiệp đóng tàu quốc phòng (có thêm kinh nghiệm để tái trang bị cho tàu sân bay lớp Đô đốc Kuznetsov) và có nguồn thu ngân sách, Ấn Độ có tàu sân bay với giá hợp lý (tàu sân bay cỡ lớn của Hoa Kỳ có giá đến 14 tỷ đô-la.) Tuy nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng, nảy sinh nhiều khó khăn như thiếu hụt nhân công của Sevmash đã làm cho chi phí của “Vikramaditya” tăng gấp đôi, cũng như việc không lường trước được mức độ tụt hậu công nghệ, mà trên hành trình giao tàu cho Ấn Độ, nó đã bị hỏng động cơ… Thiếu tướng Igor Kozhin, tư lệnh Không quân Hải quân Liên bang Nga thì nói rằng Nga sẽ có chiếc tàu sân bay mới đầu tiên vào năm 2015; nhưng trong tình hình ngân sách nước này thâm hụt nặng từ “cú sốc dầu mỏ 2014,” nhà nghiên cứu Dmitry Gorenburg, Trung tâm nghiên cứu Nga và Á – Âu Davis thuộc Đại học Harvard thì cho rằng Nga không thể có tầu sân bay mới trước năm 2027.

Ngày 4/12/2014, Hạ viện Mỹ thông qua Dự luật số H.Res. 758, cáo buộc Nga “gây hấn chính trị, kinh tế và quân sự, vi phạm chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ” với Ukraine, Gruzia và Moldova; vi phạm luật pháp quốc tế, với tỉ lệ phiếu 411/10… với Dự luật này, Hạ viện Hoa Kỳ đã tuyên bố “chiến tranh lạnh” với Nga. Từ khi V.Putin nắm quyền cho đến tháng 1/2014 ngân sách quốc phòng Nga là vào khoảng từ 2,5 đến 3,2% và có xu hướng tăng đều. Đến đúng thời điểm “khủng hoảng Ukraine và Crimea” tháng 2/2014 ngân sách quốc phòng Nga đã tăng gấp đôi so với năm 2001; con số thống kê của các tháng 2, 3 và 4 năm 2014 cho thấy ngân sách quốc phòng Nga là 6,7% GDP và chiếm 27,7% các khoản chi ngân sách. Ngay hai tháng đầu năm 2015, chi ngân sách cho quốc phòng của Nga đã tăng 2,3 lần so với giai đoạn từ tháng 5 đến tháng 12/2014; so với giai đoạn trước “khủng hoảng” là 3,3 lần và so với giai đoạn năm 2000 là 8,8 lần. Chỉ có hai tháng này thôi, chi ngân sách cho quốc phòng đã là 1,3 nghìn tỷ Rub, tức là hơn 20 tỷ đô-la Mỹ, chiếm đến 43,3% tổng các khoản chi ngân sách trong khi báo cáo về GDP của Nga liên tục giảm do khó khăn về kinh tế - Michael Rubin cho biết (M. Rubin là học giả chính thức của Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ, giảng viên cao cấp tại Trường Hải quân cấp cao của Hải quân Hoa Kỳ về những vấn đề quân - dân sự.)

Trong khi đó, Hoa Kỳ tiếp tục cắt giảm quân số bằng mức quân đội Mỹ vào thời điểm trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tổng thống Obama đã bước vào giai đoạn cuối nhiệm kỳ thứ hai, đang phải đối phó với cuộc chiến chống Nhà nước Hồi giáo IS, đối thoại hạt nhân với Iran và gần đây nhất là nội chiến ở Yemen… nước Mỹ như bị căng ra trên tất cả các mặt trận. Chính vì vậy mà trong “cuộc khủng hoảng Ukraine và Crimea,” đến nay chính sách của Hoa Kỳ chưa thực sự rõ ràng, như chưa quyết định được việc có cung cấp vũ khí sát thương cho Ukraine hay không… thực ra ngay cả việc phát triển mạnh công nghệ khai thác dầu đá phiến và chính sách giá dầu mỏ của Mỹ và OPEC, cũng chưa thể khẳng định được đó có phải là “đòn đánh nhằm vào Nga” (hoặc thêm cả một số nước “thù địch” như Iran hay Venesuela) hay không… Tổng thống Barack Obama từ khi xảy ra cuộc “khủng hoảng Ukraine” đến nay, vẫn đang được đánh giá chưa có được những chính sách đối ngoại hiệu quả để kiềm chế nước Nga và nhiều khả năng cho đến hết nhiệm kỳ của mình, ông cũng không thể có được hành động nào mang lại kết quả đáng kể. Mới nhất, ngày 11/4/2015 tổng thống V.Putin đã ký sắc lệnh bỏ lệnh cấm cung cấp tên lửa S-300 cho Iran với lý do “đã có những tiến bộ trong thỏa thuận giữa Iran và P5+1 gần đây về vũ khí hạt nhân” – còn phía Mỹ thì bày tỏ lo ngại trước động thái rất mới này của Nga.

Từ câu chuyện của “Vikramaditya” ta có thể phần nào hình dung ra được lý do Nga tăng mạnh ngân sách quốc phòng trong khoảng thời gian ngắn gần đây, bất chấp những khó khăn về kinh tế (giá dầu mỏ xuống thấp và lệnh trừng phạt.) Đầu tiên có thể nói, là Nga muốn nhanh chóng thu hẹp khoảng cách, tiến đến đuổi kịp Phương Tây nhất là Hoa Kỳ về mức độ phát triển công nghệ hiện đại trong lĩnh vực quân sự. Cuộc tập trận gần đây của Nga ở Biển Bắc với quân số “khủng” càng nói lên nhu cầu của nước này trong việc bắt kịp thế giới. Thời của chiến tranh dùng sức người đã qua, nay đã đến thời kỳ của việc sử dụng những lực lượng nhỏ nhưng tinh nhuệ, được hỗ trợ bởi công nghệ quân sự hiện đại. Thứ hai, ngoài bán dầu mỏ và khí đốt, Nga có một nguồn thu rất lớn từ bán vũ khí và công nghệ quân sự; nhưng càng ngày tính cạnh tranh của “hàng Nga” càng yếu đi nếu chỉ dựa trên giá rẻ, vì nó vấp phải chính cạnh tranh của ông hàng xóm “hàng Trung Quốc” nhất là lĩnh vực vũ khí cá nhân… Lĩnh vực bán vũ khí cũng là lĩnh vực Nga còn nhiều khách hàng không bị khống chế bởi lệnh trừng phạt. Công nghiệp quốc phòng Nga nói riêng và toàn bộ nền công nghiệp Nga nói chung, đã xuống cấp nhiều trong suốt thời gian từ khi Liên Xô sụp đổ đến nay; cần phải có đầu tư phục hồi một cách thỏa đáng. Có thể nói đầu tư vào lĩnh vực thế mạnh, cũng là một lựa chọn tốt của V.Putin – và chúng ta có thể dự đoán việc “tăng chi ngân sách quốc phòng” của Nga trong thời gian qua, chính là khoản đầu tư cho công nghiệp quốc phòng, cả sản xuất lẫn nghiên cứu khoa học. Thứ ba, việc tăng đầu tư cho công nghiệp quốc phòng chắc chắn cũng là một phần của kế hoạch phục hồi nền kinh tế, và nhiều khả năng chính nó cũng đang là một trong những động lực đem lại cho nền kinh tế Nga con số tăng trưởng “dương” trong thời gian gần đây. Không loại trừ lệnh trừng phạt của Phương Tây cũng đã có tác dụng trong việc ngăn Nga tiếp cận với các thành tựu công nghệ quân sự, do đó Nga phải quay lại đầu tư nghiên cứu, cũng là một nguyên nhân gây tăng ngân sách quốc phòng.

Có vẻ như đây là giai đoạn rất giống với thời của Tổng thống Carter, trước những hành động tăng cường sức mạnh quân sự rất “bạo tay” của Liên Xô, Carter vẫn không có được những biện pháp hữu hiệu để “ngăn chặn.” Quá trình đưa nước Nga trở lại vị trí siêu cường về quân sự, Putin đã tiến hành thành công từ khi ngồi ghế tổng thống năm 2001 và đến nay bất chấp những khó khăn về kinh tế, chưa có dấu hiệu dừng lại. Hơn thế nữa, cuộc nội chiến ở Yemen lại góp phần làm giá dầu tăng lên được một chút, đem lại cho sự phục hồi kinh tế Nga “con số dương…” Để khẳng định những gì đang diễn ra có phải là một cuộc chạy đua vũ trang mới hay không, chưa thể nói được gì, nhưng chắc là những thay đổi lớn trong chính sách với nước Nga phải ở vào thời kỳ của vị tổng thống kế nhiệm ông Obama, chứ không phải năm 2015 này.

Hết

Đọc lại phần 2 tại đây

Đọc lại phần 1 tại đây

Theo:
“Lịch sử quan hệ ngoại giao từ 1919 đến nay” – Jean Baptiste Duroselle, những người dịch Lưu Đoàn Huynh, Quách Ngọc Bảo; bản xuất bản của Học viện Quan hệ quốc tế (nay là học viện Ngoại giao), 1994. Có tham khảo thêm bản pdf “Histoire diplomatique de 1919 à nos jours” Paris, Dalloz, 1974, 871 trang.

defensenews.com; reuters.com; commentarymagazine.com

Bài trên Tuần Việt Nam tại đây

Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây 

No comments:

Post a Comment