Monday, May 16, 2016

Liệu món quà ông Obama mang sang có phải dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí?


Tháng Năm 2016 này, chúng ta cùng mong chờ chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Hoa Kỳ Obama vốn đã được hai nước thu xếp từ khá lâu. Đây cũng là thời điểm hệ trọng vì nó gắn với kỷ niệm 20 năm hai nước bình thường hóa quan hệ cũng như Việt Nam vừa tổ chức thành công Đại hội Đảng cộng sản lần thứ 12.

Một chuyến đi như vậy có thể sẽ làm thay đổi nhiều không chỉ quan hệ hai nước, mà còn tình hình quốc tế từ khu vực đến bình diện rộng hơn, thậm chí chính sách của mỗi quốc gia cũng sẽ có những thay đổi nhất định. Trong bài viết này, tôi muốn cùng độc giả xem xét vị thế của Việt Nam trong khu vực, nhất là trong những mối quan hệ đặc biệt vừa truyền thống lại vừa biến đổi không ngừng.

Nhắc đến quan hệ truyền thống của Việt Nam (nhất là về quốc phòng) không thể không nhắc đến nước Nga, “người” kế thừa và phát triển mối quan hệ đặc biệt tốt đẹp từ thời Liên Xô cũ. Từ sau “sự kiện tan rã” năm 1991, nước Nga đi từ thời ốm yếu Eltsin đến thời của Tổng thống Putin dần dần lấy lại được vị thế của một cường quốc có vũ khí hạt nhân và thành viên của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, tiếng nói ngày càng có trọng lượng trở lại trên trường quốc tế. Thế giới quen dần với các hội nghị G7+1, G20+1… với sự tham gia đương nhiên của Nga. Về quốc phòng, Ủy ban Nga – NATO được thành lập từ năm 2002, các cuộc tiếp xúc chính thức được tổ chức thường xuyên tuy có gián đoạn từ tháng 4/2014 nhưng năm nay đã được nối lại.

Nga vẫn là nước chủ yếu cung cấp cho Việt Nam vũ khí để bảo vệ đất nước, trong hoàn cảnh lệnh cấm vận vũ khí sát thương từ phía Hoa Kỳ vẫn duy trì (mới chỉ được dỡ bỏ một phần năm 2014.) Với bề dày phát triển, công nghệ vũ khí Nga vẫn luôn luôn là lựa chọn hàng đầu của quân đội các nước, và chúng ta sẽ không thể không nhắc tới Trung Quốc, đang thèm muốn rất nhiều công nghệ mà họ chưa thực sự làm chủ và không hề giấu diếm tham vọng muốn trở thành một thế lực mới trên thế giới về quân sự.

Trong bối cảnh từ năm 1988 Trung Quốc bắt đầu gây sự trở lại ở Trường Sa với việc chiếm đảo Gạc Ma, rồi từ đó thường xuyên gây tranh chấp và căng thẳng trong khu vực với các quốc gia liên quan, toàn bộ các nước xung quanh biển Đông đều bị đặt vào tình thế phải gia tăng sức mạnh quân sự. Năm 2014 Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng đặc quyền kinh tế thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Từ đó Trung Quốc không ngừng có các hành vi bồi đắp, tôn tạo các “đá” lúc nổi lúc chìm, biến chúng thành đảo nhân tạo, xây các công trình quân sự, đường băng cho máy bay… tức là quân sự hóa Trường Sa đã gây lo ngại không chỉ cho các nước liên quan vùng Biển Đông, mà còn cả trên trường quốc tế.

Nước Nga với tư cách là đối tác chiến lược rất quan trọng với cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, do đó chắc chắn tiếng nói của họ cũng đầy sức nặng trước những vấn đề của Biển Đông. Hơn ai hết từ trước đến nay Việt Nam cần Nga. Điều này chúng ta có thể chứng kiến nhiều người Việt Nam bình thường thôi cũng mong Nga có “ý kiến” với Trung Quốc để Biển Đông bớt dậy sóng.

Vậy Việt Nam mong muốn một nước Nga như thế nào?

Thứ nhất, Việt Nam cần một nước Nga mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự. “Sức mạnh quân sự” ở đây tôi muốn nói đến một quân đội mạnh về công nghệ vũ khí và cả trình độ tác chiến tinh nhuệ, hiện đại. Một nước Nga mạnh mẽ như vậy sẽ đóng góp tích cực cho sự bình ổn an ninh thế giới. Như chúng ta thấy từ sự kiện 11/9 năm 2001 đến nay, thế giới đang đối mặt với những kẻ thù mới, vô hình hơn, thiên biến vạn hóa hơn… đó là chủ nghĩa khủng bố. Trước một kẻ thù như vậy, một mình nước Mỹ không đủ, thêm cả Liên minh Châu Âu cũng không đủ để đối phó, và chính họ vẫn thường xuyên trở thành nạn nhân của khủng bố. Một nước Nga mạnh mẽ đã tham gia tích cực các hoạt động cứu trợ nhân đạo động đất, sóng thần ở nhiều nước…

Từ sau vụ sáp nhập bán đảo Crimea đầu năm 2014 đến nay, “tác động kép” của lênh trừng phạt từ Phương Tây áp đặt lên Nga kết hợp giá dầu mỏ thế giới giảm sâu liên tục trong khoảng hơn nửa năm và duy trì ở mức thấp cả năm nay, làm cho nước Nga bị thiệt hại nặng nề. Hơn thế nữa, ông Putin còn quyết định tham gia không kích lực lượng “Nhà nước Hồi giáo” (ISIS) ở Syria, cũng là một chiến dịch tốn kém; chưa kể đến việc nước này vẫn bị cho rằng đang dính líu vào xung đột quân sự ở Đông Ukraine…

Cho đến thời điểm đầu năm 2016 không ai rõ “túi tiền” của Putin lép đi là bao nhiêu, nhưng chắc chắn thiệt hại là đáng kể. Về kinh tế, để có được sức mạnh trở lại nước Nga cần một giá dầu cao, cũng như tính cạnh tranh của thị trường là vừa phải thôi; và điều đó hiện nay là không thể vì công nghiệp dầu đá phiến của Hoa Kỳ tuy có khó khăn vì giá thấp, nhưng với chính sách năng lượng của nước này có nhiều thay đổi, thì họ vẫn trụ được. Thời gian vừa qua chúng ta còn chứng kiến việc Iran được dỡ bỏ cấm vận và tham gia trở lại vào “chợ dầu mỏ,” cũng sẽ làm thị trường có thay đổi lớn. Hạ tuần tháng Tư, hội nghị Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) được tổ chức – mà không có sự tham gia của Bộ trưởng dầu mỏ Iran và trước đó nước này đã tuyên bố không cắt giảm sản lượng dầu. Ngày 18/4 ngay khi hội nghị này kết thú mà không có được thỏa thuận nào về giảm sản lượng dầu, giá dầu thế giới lập tức giảm mạnh. 

Không những thế, Nga đang tiếp tục mất đi những khách hàng truyền thống, như một Châu Âu “làm mình làm mẩy” trước khí đốt Nga và do cuộc chiến Syria, Nga biến Thổ Nhĩ Kỳ đang là bạn, quay ngoắt 180 độ thành kẻ thù.

Nga buộc phải quay sang phương Đông, bắt tay với “con buôn” có tiếng là nguy hiểm: Trung Quốc. Dù khó khăn về tài chính, tập đoàn dầu khí Gazprom của Nga vẫn phải bỏ tiền túi để đầu tư (từ khoản vay từ ngân hàng Trung Quốc) để xây dựng đường ống khí đốt theo “Hợp đồng khí đốt khủng” kéo dài 30 năm trị giá 400 tỷ đôla để bán khí đốt sang vùng Đông Bắc Trung Quốc.

Về ngoại giao, Nga đã buộc phải có thái độ có thể nói là rất ủng hộ Trung Quốc trong việc “chống quốc tế hóa giải quyết tranh chấp Biển Đông,” thể hiện qua phát ngôn của Ngoại trưởng Lavrov gây cực kỳ bất lợi cho các nước nhỏ khi “nói chuyện” với Trung Quốc để xử lý những vấn đề do chính nước này gây ra ở Biển Đông.

Vậy thì bao giờ giá dầu thế giới sẽ tăng cao trở lại? Chúng ta sẽ quay lại với câu hỏi này sau.

Thứ hai, Việt Nam sẽ có lợi với một nước Trung Quốc yếu. Đúng là năm vừa qua chúng ta chứng kiến một nền kết quả Trung Quốc chao đảo, tốc độ tăng trưởng giảm sút… “công xưởng của thế giới” vấp phải một loạt những khó khăn thách thức, từ áp lực môi trường xuống cấp, hố ngăn cách giầu nghèo ngày càng vừa rộng lại vừa sâu thêm, đất nước đang bước vào thời kỳ “dân số già” và những bất cập của “chính sách một con” đã bộc lộ rất nghiêm trọng… Tuy nhiên sức mạnh của quốc gia này vẫn là rất lớn sau một thời kỳ phát triển nóng liên tục trong suốt hơn 40 năm, đây là điều không thể bị xem thường. Tham vọng của Trung Quốc là sẽ trở thành một cực của một thế giới đa cực.

Trung Quốc trước tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, muốn thay đổi nguồn năng lượng của mình từ chủ yếu dùng than sang dùng khí đốt. Hiện nay,  đã có các dự án của Chính phủ trung ương Trung Quốc đầu tư đến 1 tỷ đôla để  thăm dò và phát triển dầu khí từ đá phiến. Con số dự báo cho thấy Trung Quốc sẽ là một thế lực mới trong lĩnh vực này với trữ lượng khoảng 31,6 nghìn tỷ mét khối, bằng cả trữ lượng của Canada lẫn Hoa Kỳ gộp lại. Từ năm 2014, sản lượng dầu đá phiến Trung Quốc được dự báo sẽ tăng gấp đôi vào năm 2020; từ 170 tỷ mét khối đến trên 400 tỷ mét khối. Công ty BP còn dự báo dầu khí đá phiến có thể đáp ứng 22% nhu cầu năng lượng của Trung Quốc vào năm 2030.)

Cái Trung Quốc đang thiếu là công nghệ khai thác dầu đá phiến – ngoài BP, còn có thể kể đến các công ty khác cũng rất nhiệt tình tham gia vào lĩnh vực đầy triển vọng này như Shell của Hà Lan nay ConocoPhillips của Hoa Kỳ. Riêng hợp đồng với ConocoPhillips thì đáng nhẽ ra đi vào hoạt động với bồn dầu Trường Thanh (Thiểm Tây) rồi, nhưng đó lại là khu vực quân sự không cho phép liên doanh với đối tác nước ngoài nên dự án phải chuyển sang một vị trí mới nên tiến độ có bị chậm lại.

Phát triển được dầu đá phiến trong nước, Trung Quốc sẽ giảm được lượng than sử dụng để phát nhiệt điện đang chiếm đến 70% tiêu thụ năng lượng của đất nước và đang bị cho là nguyên nhân chính gây ô nhiễm không khí. Có dầu trong nước, Trung Quốc sẽ chủ động về dầu mỏ mà không phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu nhiều từ bên ngoài như hiện nay nữa. Hiện nay Trung Quốc đang nhập khẩu dầu từ nhiều nguồn, đáng kể nhất là nguồn Trung Đông và phải vận chuyển bằng đường biển về qua… Biển Đông. Điều này giải thích tại sao Trung Quốc ngoài việc nhòm ngó tiềm năng dầu khí Biển Đông, lại còn quan tâm vùng biển này với tư cách là con đường huyết mạch cho năng lượng quốc gia.

Chắc chắn trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh công nghiệp dầu đá phiến trong nước, chứ không thể đứng yên –  xu thế hiện nay thì việc tiếp cận công nghệ là không quá khó, và với một nguồn lực ghê gớm về tiền mặt, thì Trung Quốc sẽ nhanh chóng trở thành cường quốc dầu mỏ. Kết quả này là có thể nhìn thấy được.

Nhưng nếu như vậy, thì chúng ta cũng chạm tay được vào câu trả lời cho câu hỏi trên đây – “Bao giờ thì giá dầu thế giới lại tăng cao trở lại?” Có lẽ sẽ còn lâu lâu nữa – và như vậy thì nước Nga ít nhất trong vài năm tới sẽ không thể trông chờ vào giá dầu để phục hồi sức mạnh kinh tế.

Thứ ba, trước tình hình dậy sóng Biển Đông, Việt Nam sẽ cần một nước Mỹ có chính sách chống Nga vừa vừa thôi, tốt nhất là thân thiện. Chính sách của Hoa Kỳ đối với Nga mà căng thẳng, thì nước Nga sẽ có nhiều khó khăn. Những tác động của lệnh trừng phạt từ Phương Tây (chủ yếu do Mỹ khởi xướng) đã làm cho nền kinh tế nước Nga rơi vào suy thoái như thế nào chúng ta đã thấy: các công ty trong nước không được đáo hạn khi đến hạn thanh toán các khoản nợ nước ngoài, không tiếp cận được các nguồn vốn mới, không tiếp cận được các công nghệ tiên tiến để duy trì công nghiệp quốc phòng vốn là thế mạnh của đất nước.

Một Hoa Kỳ với những chính sách không thân thiện với nước Nga buộc Putin phải căng sức lên, thay vì có được một thời gian hòa dịu để phát triển. Chiến dịch không kích của Nga ở Syria là một minh chứng rõ ràng cho điều này: nguồn lực đang rất quý cho phục hồi sản xuất và phát triển trở lại, lại phải dùng để nuôi chiến tranh.


Đáng tiếc là tình hình xấu đi quá nhiều từ khi nước Nga sáp nhập bán đảo Crimea của Ukraine, và cuộc gặp gỡ Nga – NATO ngày 20/4 vừa qua lại chưa tìm được tiếng nói chung cho tiến trình hòa bình ở Đông Ukraine. Thậm chí không chỉ thế, mà một số lệnh trừng phạt được đưa ra từ việc sáp nhập Crimea, nếu nói Nga trả lại là không tưởng thì không biết đến bao giờ chúng (lệnh trừng phạt) sẽ được dỡ bỏ?

Thời đại của một nước dù mạnh đến mấy có thể tự cô lập mình đã qua. Chính vì thế mà nước Nga phải có những thay đổi về chiến lược địa chính trị của mình – và phải chăng thời kỳ của “quan hệ nồng ấm Nga – Trung” đang bắt đầu?

Với đường lối “không liên kết với nước này để chống nước khác,” từ tầm cỡ toàn cầu lẫn chỉ khu vực Biển Đông Việt Nam vẫn luôn cần phải đa dạng hóa, đa phương hóa kể cả về hợp tác quốc phòng. Chính vì thế mà trong các chuyến thăm Hoa Kỳ của lãnh đạo Việt Nam thời gian gần đây đều đề cập vấn đề nước này dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí. Đa dạng hóa nguồn cung, tìm đến những nguồn lực tài chính tín dụng mới cho mua sắm vũ khí cũng là một phương án tốt để tăng cường tiềm lực quốc phòng bảo vệ đất nước.

Chuyến thăm của tổng thống Hoa Kỳ Barrack Obama nhằm vào lúc cuối nhiệm kỳ của ông, ông chỉ còn ngồi ở ghế tổng thống chưa đầy một năm nữa. Trong nhiệm kỳ của mình, ông đã làm cho quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ những điều rất quan trọng, như xác lập “Quan hệ Đối tác toàn diện” (2013), thúc đẩy Việt Nam gia nhập TPP… Liệu trong lần sang thăm này, dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí có phải là “món quà” ông Obama sẽ đem đến cho Việt Nam?

Bài trên Soha tại đây

Tham gia thảo luận trên Facbook tại đây 

No comments:

Post a Comment