Thursday, June 30, 2016

Hơn một thế kỷ quan hệ Nga – Trung có “đồng sàng dị mộng?”

Trái sang phải:
Mao, Bulganin, Stalin, Tsedenban
Tổng thống LB Nga V.Putin đang có chuyến thăm chính thức CHND Trung Hoa từ ngày 25/6. Có thể nói quan hệ giữa hai nước này thu hút được rất nhiều sự chú ý của dư luận thế giới, đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay khi cả 2 quốc gia này một đang ở thế bị cô lập và một thì có thể sẽ bị cô lập sau vụ Philippines kiện Trung Quốc ra án Trọng tài thường trực (PCA) về những tranh chấp trên Biển Đông.

Trong bài viết này người viết muốn cùng bạn đọc điểm qua lại những sự kiện và đặc điểm chính trong quan hệ hai nước từ cuối thế kỷ 19 đến nay.

Nga rồi sau đó là Liên Xô, từ 1991 lại là Nga tiếp quản những gì còn lại lớn nhất, giá trị nhất của thực thể đã tan rã đó cùng với Trung Quốc là hai quốc gia lớn nhất nằm vắt ngang lục địa Á – Âu. Không chỉ thế, hai nước này đến nay vẫn luôn đóng vai trò là những nước lớn, mạnh về quân sự và đều là thành viên của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Nhất cử nhất động của hai nước cả về đối nội, lẫn đối ngoại đều có ảnh hưởng to lớn đến tình hình thế giới.

Quan hệ bắt đầu từ chiến tranh, tranh giành lãnh thổ và lợi ích

Quan hệ đầy “duyên nợ” của hai nước bắt đầu từ cuộc Chiến tranh Nga – Nhật lần thứ nhất (1894 – 1895) mà kết quả của nó là nước Nga chiếm được một vùng đất ở Đông Bắc Trung Quốc (Mãn Châu Lý) làm tô giới đồng thời xây dựng ở đây một đường sắt là Đường sắt Đông Trung Quốc (được nước Nga Sa hoàng xây dựng từ năm 1898 đến 1903.) Sau cuộc Chiến tranh Nga – Nhật lần thứ hai 1904 – 1905 mà thất bại thuộc về nước Nga Sa hoàng, nước Nga đành ngậm ngùi nhìn vùng Mãn Châu và tuyến đường sắt này lọt vào tay người Nhật.

Năm 1915, Hiệp ước Nga – Trung – Mông được ký kết, quy định quyền làm chủ lý thuyết của Trung Quốc đối với Ngoại Mông (phần lớn là người Mông Cổ sinh sống, khoảng 300.000 người.) Cả Nga và Trung Quốc đều không được đưa quân đến Ngoại Mông, đặc biệt Trung Quốc bị nghiêm cấm di dân đến đây. Có thể nói đây là một vùng đệm giữa hai nước.

Nếu như cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ triều đại Mãn Thanh chưa làm cho Trung Quốc trở thành cường quốc, thì cuộc Cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ năm 1917 lại làm cho nước Nga nhanh chóng chuyển mình. Trung Quốc tiếp tục sa vào nội chiến, vì trên đất nước tồn tại hai chính quyền, một chính quyền ở Bắc Kinh (Bắc Bình) được các cường quốc công nhận, một chính quyền của Tôn Dật Tiên ở phía nam. Đó là chưa kể Mãn Châu lại thuộc quyền cai trị của Trương Tác Lâm, một nhà độc tài. Chỉ khi Chính phủ Bắc Kinh buộc phải tự giải tán, Trương Tác Lâm từ Mãn Châu về Bắc Kinh thì mới bớt đi tình trạng “tam quốc diễn nghĩa.”

Còn nước Nga, chiến lược đúng đắn của Lênin “biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến” rồi sau đó, năm 1922 Liên Xô thành lập, một cường quốc mới đã ra đời.

Tuy nhiên, vào thời điểm năm 1920 nước Nga còn sa lầy trong nội chiến, thì ở Mãn Châu Lý đại sứ của nước Nga Sa hoàng, hoàng thân Kudachev vẫn tại vị; chỉ đến tháng 9/1920 thì chính quyền Bắc Kinh mới tuyên bố chấm dứt các hiệp định “bất bình đẳng” ký với nước Nga trước đây, không công nhận vai trò của đại sứ Kudachev, các ưu đãi về trị ngoại pháp quyền của công dân Nga ở vùng này không còn, mà thuộc về quyền tài phán của chính quyền Trung Quốc. Đương nhiên là tuyến đường sắt Đông Trung Quốc sẽ không còn do người Nga cai quản nữa, ít nhất là cho đến khi có Hiệp ước mới được ký với một chính quyền nào đó của nước Nga được Trung Quốc công nhận. Đường sắt này trước mắt thuộc quản lý của một ủy ban tài chính quốc tế gồm 5 người Trung Quốc và 5 người Nga Bạch vệ và lực lượng cảnh sát bảo vệ là người Trung Quốc. Như vậy là quyền lợi của nước Nga Xôviết đã bị gạt ra ngoài đối với tuyến đường sắt quan trọng này.

Ngay năm 1919, Trung Quốc đã tiến vào Ngoại Mông nhằm khôi phục quyền lợi của mình ở vùng này, nhưng do ở đây đang hoạt động một lực lượng Bạch vệ của nam tước Ungern Stenberg, nên tình hình rất không ổn định. Không được bao lâu, Hồng quân Xôviết tiến vào Ngoại Mông (7/1921.) Ungern Stenberg bị bắt và bị hành quyết, tháng 11 năm này Hiệp ước Nga Mông được ký kết, đánh dấu sự ra đời của nước Mông Cổ độc lập. Chỉ một phần lãnh thổ nhỏ là vùng Urianghai trở thành nước cộng hòa Tannu-Tuva nằm dưới sự quản lý trực tiếp của người Nga Xôviết. Sự kiện này sẽ mãi là nỗi hận đối với người Trung Quốc, vì họ chưa bao giờ từ bỏ yêu sách về các lãnh thổ “cương vực” của mình.

Stalin không tin Mao Trạch Đông, khen ngợi và hợp tác với Tưởng Giới Thạch

Thập kỷ 1930 đánh dấu bằng “Sự kiện Thượng Hải”, ngày 29/1/1932 Nhật Bản ném bom thành phố này; sau đó là việc thành lập Mãn Châu Quốc vào giữa năm. Tháng 3/1933 Liên Xô thỏa thuận với Nhật Bản về việc từ bỏ quyền lợi của mình đối với tuyến đường sắt Đông Trung Quốc, bù lại Nhật Bản trả cho Liên Xô 140 triệu yên, trong đó 2/3 được lấy bằng hàng hóa. Những nhân viên Nga bị thải hồi được bồi thường.

Liên Xô hoàn toàn đứng ngoài tình hình khu vực Đông Bắc Trung Quốc, vì lúc này mối quan tâm của Nga không phải là châu Á và Viễn Đông, mà là Châu Âu. Chính vì vậy mà các xung đột biên giới với Nhật Bản vào cuối thập kỷ; chính xác là giữa một bên là liên quân Xô – Mông và bên kia là liên quân Nhật – Mãn, đỉnh cao là các trận đánh xung quanh Khankhin Gôn, đã kết thúc có lợi cho Liên Xô và hai bên dừng lại ở việc sẽ không tiếp tục xâm phạm lẫn nhau. Liên Xô sẽ được rảnh tay đối phó với Đức ở phía Tây, còn Nhật Bản bắt đầu cuộc chinh phục châu Á của mình và đánh nhau với Mỹ ở Thái Bình Dương. Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ.

Cuộc Thế chiến diễn ra ở Trung Quốc chủ yếu là Quốc – Cộng kháng chiến chống Nhật, nhưng càng về cuối cuộc chiến, hai lực lượng càng mâu thuẫn với nhau. Đồng minh càng thắng lợi, Tưởng Giới Thạch càng trở nên ngoan cố, bất chấp những cố gắng dàn xếp của tướng Mỹ Hurley. Tưởng Giới Thạch không chấp nhận việc thành lập Chính phủ liên hiệp, vì chung sống với người cộng sản sẽ liên quan đến việc phóng thích các tù chính trị. Tháng 1/1945 ở Trùng Khánh đã có cuộc gặp giữa Chu Ân Lai và Ngoại trưởng Trung Hoa dân quốc Tống Tử Văn, nhưng không đạt được kết quả nào. Hurley đề nghị Chính phủ Hoa Kỳ không cung cấp vũ khí cho những người cộng sản Trung Quốc, càng làm cho phe Tưởng thêm cứng rắn.

Vậy thái độ của Liên Xô như thế nào? Ngày 15/4/1945, Hurley gặp Stalin và Molotov ở Moscow, ông nghe Molotov tuyên bố “Liên Xô không ủng hộ những người cộng sản Trung Quốc vì họ không thực sự là cộng sản.” Stalin đã giành cho Tưởng Giới Thạch những lời khen ngợi là “một người yêu nước,” không muốn Trung Quốc có nội chiến. Chính thái độ này đã củng cố niềm tin của Hurley về lập trường chính thức của Hoa Kỳ. Ngược lại, Georges Kerman, đại biện lâm thời Hoa Kỳ ở Moscow thì tỉnh táo hơn khi nhận định Liên Xô chỉ quan tâm đến lãnh thổ của Trung Quốc vùng Trung Á và kiểm soát được vùng Đông Bắc Trung Quốc mà thôi. Có lẽ đây sẽ là vết rạn lớn nhất trong quan hệ Xô – Trung sau này.

Gió đổi chiều, Moscow thay đổi thái độ với Bắc Kinh

Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản. Từ 4 hướng, 60 sư đoàn Hồng quân dưới sự chỉ huy của nguyên soái Aleksandr Vasilevsky (1895 – 1977) tiến vào Mãn Châu, Triều Tiên và Nam Sakhalin. Đạo quân Quan Đông của Nhật Bản nhanh chóng bị đánh bại, Liên Xô nhanh chóng chiếm toàn bộ Mãn Châu, bắt 600.000 tù binh Nhật.

Cần phải lần ngược lại thời gian, năm 1943 ở Hội nghị Cairo, các nước Đồng minh đã thảo luận sẵn về việc chia lại lãnh thổ Nhật Bản sau chiến tranh, Trung Quốc sẽ nhận lại Mãn Châu và Đài Loan và Triều Tiên sẽ được độc lập. Đến Hội nghị Yalta (2/1945) Đồng minh lại thống nhất rằng Liên Xô sẽ được phục hồi các quyền lợi các quyền lợi của mình ở Đông Bắc Trung Quốc như trước năm 1905 “nếu như có sự đồng ý của Trung Quốc,” quần đảo Kuril (vốn bị Nhật chiếm đã lâu) và Nam Sakhalin sẽ thuộc về Liên Xô. Cảng Đại Liên của Trung Quốc sẽ được quốc tế hóa, Liên Xô lấy lại căn cứ hải quân Port Arthur (Lữ Thuận.) Đường sắt Mãn Châu (Đường sắt Đông Trung Quốc) và Nam Mãn Châu chạy ra 2 cảng Đại Liên và Lữ Thuận sẽ thuộc một công ty chung Xô – Trung quản lý.

Nước Nhật bại trận cho phép chính quyền Tưởng Giới Thạch phục hồi được lãnh thổ quốc gia như trước năm 1932 và cả đảo Đài Loan. Trên thực tế có 2 yếu tố cản trở việc xuất hiện một nước Trung Quốc hùng mạnh: hành động của Liên Xô ở Mãn Châu và nội chiến Quốc – Cộng.

Tháng 7/1945, ngoại trưởng Quốc dân Đảng Tống Tử Văn tới Moscow, và tháng sau hai bên ký một loạt các hiệp định Xô – Trung. Đường sắt Trường Xuân nối Mãn Châu với Lữ Thuận thuộc chủ quyền của Trung Quốc, nhưng sẽ do một công ty Xô – Trung (chủ tịch là người Trung Quốc) quản lý. Lữ Thuận được sử dụng làm quân cảng chung cho 2 nước Xô, Trung: Trung Quốc quản lý dân sự còn Liên Xô lo phần quân sự. Cảng Đại Liên về nguyên tắc là cảng tự do, mở cửa thương mại cho tất cả các nước nhưng Liên Xô được miễn thuế quan và tham gia quản lý cảng. Hai bên còn thỏa thuận về việc Liên Xô chiếm đóng 3 tỉnh Đông Bắc Trung Quốc. Mãn Châu và Tân Cương sẽ thuộc về Trung Quốc, còn số phận của Ngoại Mông sẽ được quyết định qua một cuộc trưng cầu dân ý. Rõ ràng là với các thỏa thuận này, Liên Xô đã phục hồi được rất nhiều quyền lợi của mình gần được như thời Nga Sa hoàng trước đây. 

Cùng với sự chiếm đóng Mãn Châu của Hồng quân Liên Xô, là sự thay đổi thái độ của nước này với những người cộng sản Trung Quốc. Vùng này trở nên là vùng hoạt động mạnh của Hồng quân Trung Quốc được sự trợ giúp của Liên Xô.

Ngày 21/1/1946, bằng một bị vong lục, Liên Xô tuyên bố tịch thu toàn bộ các nhà máy, cơ sở sản xuất ở Mãn Châu đã từng phục vụ quân Nhật là chiến lợi phẩm và sẽ được chuyển về Liên Xô để phục hồi kinh tế. Trung Quốc cố gắng phản đối nhưng vô hiệu. Hành động này được đánh giá cũng để ngăn cản Trung Quốc không thể sử dụng những cơ sở sản xuất ở vùng biên giới để chống lại Liên Xô về sau này.

Cuối tháng 4/1946, Liên Xô hoàn thành việc rút quân khỏi Mãn Châu, nhưng trước đó đã gây khó khăn rất nhiều cho quân Tưởng ở đây, và tạo điều kiện cho phe Cộng sản Trung Quốc chiếm Mãn Châu. Khi Liên Xô rút xong cũng là lúc phe Cộng sản chiếm xong gần hết Mãn Châu, thành lập chính quyền nhân dân; chỉ còn vùng phía Nam Mãn Châu là còn quân Quốc dân Đảng, nhưng nhiều vùng nông thôn chính quyền nhân dân cộng sản cũng được được thành lập.

Hành động của Liên Xô trong thời gian này trực tiếp mâu thuẫn với lợi ích của Quốc dân Đảng, nhưng về lâu về dài lại tiềm tàng hiềm khích với chính… phe cộng sản Trung Quốc, như hành động chiếm chiến lợi phẩm, hay việc ủng hộ Ngoại Mông độc lập…

Cuộc nội chiến Trung Quốc kết thúc vào giai đoạn 1948 – 49, đánh dấu một thời kỳ mới trong quan hệ Xô – Trung. Người ta phát hiện ra giai đoạn cuối của cuộc nội chiến, vũ khí của Hồng quân Trung Quốc là của Liên Xô sản xuất; nhưng ngày càng có nhiều điểm khác biệt trong Cách mạng hai nước. Dường như cuộc Cách mạng ở Trung Quốc là cách mạng của nông dân kết hợp với quân sự; không phải của giai cấp công nhân như ở Nga.

Điều quan trọng hơn cả, là trong quan hệ hai nước Trung Quốc không hề muốn đóng vai trò của một chư hầu.

Ngày 1/10/1949, nước CHND Trung Hoa được thành lập được Liên Xô công nhận ngay lập tức, liền sau đó tuyên bố ở Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc rằng nước này không công nhận đại diện chính thức của nước Trung Quốc là chính quyền Trung Hoa Dân Quốc nữa.

Tháng 12/1949, Mao Trạch Đông đáp tàu hỏa Transsiberian lên Moscow và ở đó đến… 2 tháng. 2/1950 hai bên đã ký kết những Hiệp ước quan trọng. “Hiệp ước hữu nghị, đồng minh và tương trợ” có giá trị 30 năm, hoàn toàn tương tự các hiệp ước Liên Xô đã ký với các nước Đông Âu, nhưng lần này là nhằm cùng nhau bảo vệ trước hành vi xâm lược từ phía Nhật Bản hoặc bất cứ quốc gia nào trực tiếp hay gián tiếp cùng Nhật Bản xâm lược; chủ trương xúc tiến ký Hiệp ước hòa bình với Nhật Bản (đến nay vẫn chưa được ký.) Một Hiệp định khác được ký về đường sắt Trường Xuân và các cảng Lữ Thuận và Đại Liên. Liên Xô sẽ rút quân khỏi cảng Lữ Thuận, sau khi nhận khoản bồi thường cho các công trình đã xây dựng ở đây; đường sắt sẽ được trả cho Trung Quốc ngay sau khi Hiệp ước hòa bình với Nhật Bản được ký, chậm nhất là năm 1952. Ngoại Mông sẽ được độc lập, như là một “vùng đệm” giữa hai nước; Nội Mông và Tân Cương sẽ thuộc Trung Quốc nhưng việc khai thác dầu mỏ ở đây sẽ do các công ty liên doanh Xô – Trung tiến hành.

Liên Xô cũng cho Trung Quốc vay 300 triệu đôla Mỹ trong 5 năm, bắt đầu từ 1/1/1950. Người ta không hiểu sao khoản vay cho một nước nghèo, đông dân, bị chiến tranh tàn phá mà lại “hẻo” như thế, trong khi Trung Quốc không thể vay được của ai khác ngoài Liên Xô? Cùng với sự “song kiếm hợp bích” phát động chiến tranh Triều Tiên cùng năm này, có những bí ẩn mà chỉ sau này chúng ta mới được giải đáp. Chỉ có một điều dễ đoán, là cuộc Chiến tranh Triều Tiên, trực tiếp là Trung Quốc, gián tiếp là Liên Xô; là sự mở đầu của quá trình can thiệp của Liên Xô ở Châu Á. Điểm thú vị của câu chuyện, là Liên Hiệp Quốc đưa quân vào can thiệp vào Chiến tranh Triều Tiên không có sự tham gia của Liên Xô vì Liên Xô đang đứng ngoài để đấu tranh cho chiếc ghế thành viên Hội đồng Bảo an, đang được Trung Hoa Dân quốc giữ, phải được trao lại cho Mao. Một quan hệ thật nhiều “duyên nợ.”

Mao Trạch Đông muốn làm “anh cả”, tình đồng chí ngắn chẳng tày gang

Từ sau năm 1953, Stalin chết; Mao Trạch Đông dường như là lãnh tụ cộng sản uy tín nhất trên thế giới. Quan hệ giữa hai nước càng không thể giống giữa mẫu quốc và chư hầu. Trung Quốc không giấu diếm tham vọng của mình, từ quân sự là sở hữu vũ khí hạt nhân đến chính trị là trở thành hạt nhân của phong trào cộng sản quốc tế, mặc dù Trung Quốc vẫn tuyên bố miệng rằng Liên Xô là lãnh tụ của phong trào cộng sản toàn cầu.


Dịp 5 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, Trung Quốc xúc tiến việc thảo luận và ký kết lại một loạt các hiệp ước đã ký trước đây. Những điểm đáng chú ý là quân đội Liên Xô sẽ rút khỏi cảng Lữ Thuận trước này 31/5/1955 (do Hiệp ước hòa bình với Nhật Bản vẫn chưa được ký,) các cơ sở được trao lại cho Trung Quốc mà không cần bồi thường; 4 công ty liên doanh Xô – Trung được thành lập trong 2 năm 1950 – 51 gồm: khai thác dầu mỏ và kim loại mầu ở Tân Cương, xây dựng Hải quân ở Đại Liên, khai thác đường hàng không dân dụng sẽ được trao trả cho Trung Quốc có bồi thường. Hai đường sắt: Lan Châu – Alma Ata (nay là Almatư); Sinin – Ulan Bato – Viễn Đông Liên Xô sẽ được xây dựng. Như vậy Trung Quốc đã phục hồi lại gần như hoàn toàn chủ quyền của mình với Tân Cương, Nội Mông; phần nào có thêm ảnh hưởng với Ngoại Mông… Hóa ra mốc đánh dấu đầu tiên của sự “trỗi dậy Trung Hoa” lại là trong quan hệ với “anh em” chứ không phải ra bên ngoài, với các đối thủ tư bản, đế quốc. “Liên minh khăng khít” diễn ra trong một thời gian ngắn ngủi, như một giấc mơ.

Đại hội XXII Đảng cộng sản Liên Xô đánh dấu sự rạn nứt lớn nhất trong quan hệ hai nước, hai Đảng. Trung Quốc lên án “chủ nghĩa xét lại”của Nikita Khrushchev người chủ trương đường lối “Các nước không cùng lập trường chính trị có thể sống chung,” được cho là đặt nhẹ đấu tranh giai cấp và đấu tranh giải phóng các dân tộc, đối lập với tư tưởng Mao Trạch Đông. Mao đã chỉ trích Khrushchev mạnh mẽ khi chọn giải pháp rút lui sau cuộc “khủng hoảng tên lửa ở Cuba” Cuộc xung đột biên giới Trung Quốc - Ấn Độ, Liên Xô lại đứng về phía Ấn Độ bằng cách cung cấp vũ khí cho nước này.

Tháng 4 và 5/1962, nổ ra cuộc xung đột biên giới Xô – Trung. Hai nước này có đường biên giới chung dài tới 7000km, dài nhất thế giới; là địa bàn lý tưởng cho cuộc xung đột quân sự. Cuộc xung đột đánh dấu quan hệ hai nước đã chính thức tan vỡ – giữa hai “ông anh cả” trong phong trào cộng sản thế giới. Lúc đó Liên Xô đã là một cường quốc hùng mạnh, còn Trung Quốc thì thua xa về nhiều mặt. Năm 1964, Trung Quốc thử quả bom nguyên tử đầu tiên và năm 1967 là bom nhiệt hạch. Sự xa rời của hai nước bắt đầu từ ý thức hệ, khác nhau về sự giải thích Chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực chất một khu rừng không thể cùng sinh sống hai con hổ; điều này đúng cả về địa lý (lục địa Á – Âu) và ý thức hệ (chủ nghĩa cộng sản.) 

Bước sang thập kỷ 1970, Trung Quốc chính thức đi vào con đường mở cửa, cải cách với sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, trong khi đó Liên Xô lại đi vào quỹ đạo của chiến tranh lạnh chạy đua vũ trang, của nền kinh tế khai thác phụ thuộc tài nguyên, bất chấp tương lai và cuối cùng thì sụp đổ vào năm 1991. Thời điểm đó, Trung Quốc đã trở thành “công xưởng của thế giới.”

Vì sao Putin phải bám lấy Tập Cận Bình?

Nước Nga “hậu Xôviết” đã ốm yếu trong một thập kỷ, chỉ từ sau năm 2001 xuất hiện một vị tổng thống mạnh mẽ, thích khoe bộ ngực trần nam tính, biết cưỡi phi cơ chiến đấu… và một giá dầu tăng cao đã giúp nước Nga phần nào lấy lại vị thế của mình.

Chưa lấy lại được không gian rộng lớn cũ thời Xôviết, nhưng nước Nga của Putin không giấu diếm tham vọng của mình sau những hành động sáp nhập Crimea hay tiếp tục muốn duy trì ảnh hưởng ở các nước Liên Xô cũ, thông qua vai trò can dự tình hình Đông Ukraine. Chỉ hai năm chịu tác động kép của lệnh trừng phạt từ Phương Tây và giá dầu mỏ giảm thấp; nước Nga của Putin đã mất đi một phần lớn sức mạnh của mình, bị cô lập và ông Putin lục trong ngăn tủ của mình “Chiến lược xoay trục sang Phương Đông,” phủi bụi và đi tìm ông Tập Cận Bình… Trước đó, ông tuyên bố “nước Mỹ có lẽ là siêu cường duy nhất,” gián tiếp công nhận vị thế yếu ớt chưa từng thấy của nước Nga dưới thời kỳ “trị vì” của ông.

Đó là bối cảnh của chuyến thăm chính thức Trung Quốc của tổng thống Nga V. Putin từ ngày 25/6/2016. Thăm Trung Quốc trong bối cảnh “Vụ kiện Biển Đông” của Philippines trước Trung Quốc ra Toà trọng tài quốc tế (PCA) chuẩn bị ra phán quyết, không rõ vô tình hay hữu ý, mà trước đó hàng loạt các phát ngôn của các quan chức ngoại giao Nga đều trao cho Trung Quốc một tư thế thuận lợi trong giải quyết những tranh chấp ở Biển Đông trước các nước nhỏ.

“Nhất cử tam tứ tiện,” những “hợp đồng khủng” về năng lượng trước đây đã ký chưa đi đến đâu, cần được xúc tiến tiếp tục. Quan trọng hơn là trước khả năng bị cô lập của Trung Quốc nếu tòa PCA đưa ra phán quyết bất lợi và nước này sẽ chống lại; Nga với tư cách là một nước đang bị cô lập; thành lập một liên minh. Một không gian rộng lớn để phát triển kinh tế, tiến tới một liên minh về an ninh – tại sao không?

Một nền sản xuất của Trung Quốc vốn phụ thuộc 70% vào nguyên nhiên liệu nhập khẩu, không thể không thèm muốn một đối tác đầy tài nguyên mà lại đang quá khó khăn, khát tiền mặt. Một nền công nghiệp của Trung Quốc đang thải ra quá nhiều khí thải ô nhiễm, không thể làm ngơ trước một nước Nga quá rộng lớn, thừa không gian để tiếp tục… đầu tư xả thải. Trung Quốc còn thèm những công nghệ vũ khí của Nga mà họ chưa làm chủ được, còn Nga thì do lệnh trừng phạt lại phụ thuộc Trung Quốc về… công nghệ điện tử.

Rõ ràng là “Nga và Trung Quốc chưa bao giờ tin cậy nhau đến thế.” Vậy tương quan giữa hai bên có thực sự cân bằng vậy không?

Với Trung Quốc, đi từ “ẩn mình chờ thời” đến mạnh dạn “quậy” ở những vùng biển xung quanh, việc bị cô lập chưa phải là nguy cơ lớn. Nền kinh tế Trung Quốc vẫn còn cực kỳ quan trọng với toàn cầu, do đó việc đi tìm kiếm một “liên minh khăng khít” theo kiểu đã từng có trong lịch sử với Trung Quốc có lẽ là không cần thiết. Ông Tập thừa khôn ngoan để hiểu một liên minh như vậy với Nga, tiềm tàng nhiều bất lợi về chính trị hơn. Chính vì thế mà Trung Quốc đã nhận lời tham dự cuộc tập trận chung RIMPAC do Hải quân Hoa Kỳ dẫn đầu, tổ chức từ ngày 26/6 đến 1/8 năm nay ở Hawaii.

Còn với nước Nga, có lẽ cần Trung Quốc hơn là Trung Quốc cần Nga. Xin nhớ rằng Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ yêu sách về lãnh thổ của mình, dù năm 2008 Nga đã trả lại cho Trung Quốc đảo Tarabarov và một nửa đảo Bolshoi Ussuriyasky gần Khabarovsk cũng như đảo Lớn trên sông Amur ở tỉnh Trita; nhưng như vậy đâu có là đủ - nhất là những hành xử của Trung Quốc thời gian gần đây ở Biển Đông. Chưa có dấu hiệu nào cho thấy nước Nga sẽ sớm mạnh khỏe trở lại, nên đó chưa phải là vấn đề của Trung Quốc; nhưng một ngày mọi vấn đề sẽ lại nổi lên.

Phải chăng quan hệ Putin – Tập Cận Bình chỉ là “đồng sàng dị mộng?”

Theo: Lịch sử quan hệ ngoại giao – Jean Baptiste Duroselle (Histoire diplomatique de 1919 à nos jours, Paris, Dalloz, 1974) Học viện quan hệ quốc tế, Hà Nội 1994. Lưu Đoàn Huynh, Quách Ngọc Bảo dịch.

Bài trên Giáo dục Việt Nam tại đây

Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây 

No comments:

Post a Comment