Việc
chuyển hướng của những con tàu vận tải khí hóa lỏng khổng lồ có đích đến nhẽ ra
là Châu Á, không có câu trả lời nào khác là do sự ấm lên của khí hậu toàn cầu,
dẫn đến việc Trung Quốc giảm mua. Cho đến đầu tuần thứ ba của tháng Mười hai vẫn
chưa có đợt lạnh nào đáng kể và dịp Giáng sinh là đợt rét đậm được dự báo, cũng
không quá nặng nề. Đánh giá về tác động của yếu tố này lên thị trường năng lượng
toàn cầu cần căn cứ vào nền nhiệt nói chung của toàn thế giới và một vùng khí hậu
nào đó, ví dụ như Châu Âu. Sự nóng lên toàn cầu không có nghĩa là không có rét
đậm, thậm chí những đợt rét đậm đến rất khốc liệt với nhiệt độ rất thấp và dẫn
đến băng giá, tuyết rơi dày kèm bão chẳng hạn… nhưng tổng thể sẽ không kéo dài,
ngược lại số ngày nắng nóng trong năm cũng như đỉnh nhiệt độ cao sẽ ngày càng
xác lập những kỷ lục mới.
Quá
trình ấm lên toàn cầu sẽ dẫn đến những xu thế không thể đảo ngược: về lâu dài,
các cam kết về chính sách khí hậu của châu Âu sẽ dẫn đến việc loại bỏ dần khí tự
nhiên hóa thạch sau quá trình chuyển đổi năng lượng trong những thập kỷ tới.
Các dự án “năng lượng xanh” giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch ngày
càng nhận được sự ủng hộ về chính sách của các Chính phủ châu Âu. Nếu như trước
đây việc này còn gây ra những băn khoăn về hiệu quả đầu tư, thì nay nó còn có
được cả sự hỗ trợ mạnh mẽ từ nhận thức của dân cư châu Âu, thể hiện ở việc xuất
hiện nhiều hơn các thành phố đi xe đạp để loại bỏ dần phương tiện giao thông cá
nhân là xe hơi.
Với thái
độ và hành động cụ thể của các nước phát triển hiện nay với những Hiệp định, Hiệp
ước quốc tế về chống biến đổi khí hậu, chúng ta chỉ có thể hi vọng những tác động
tích cực của con người lên quá trình tăng nhiệt khí quyển toàn cầu vào cỡ ngoài
nửa thế kỷ nữa trở ra. Thậm chí nước Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump còn
rút ra khỏi Thỏa thuận Paris về chống biến đổi khí hậu, một trong những bước
lùi của nước Mỹ trong đóng góp cho những tiến bộ của thế giới.
Vậy câu
chuyện ở đây chúng ta sẽ xem xét các yếu tố có ảnh hưởng đến vị thế bán khí tự
nhiên của Liên bang Nga trong ván bài địa chính trị, việc sử dụng đòn tổng hợp
khí đốt, quân sự… liệu có thể đem lại những tác động tích cực đến vị thế của nước
này trên trường quốc tế hay không?
Đầu
tiên, chúng ta cần đánh giá vai trò, tương quan của các nước xuất khẩu dầu –
khí, tức là các quốc gia cung cấp năng lượng hóa thạch với nhau. Hãy cùng nhớ lại
thời điểm năm 2014 là năm nước Nga tiến hành việc sáp nhập bán đảo Crimea của Ukraine
vào thành một phần lãnh thổ của mình, dẫn đến một loạt các biện pháp trừng phạt
của phương Tây áp đặt lên nước này. Từ đó, dẫn đến một loạt những khó khăn ảnh
hưởng trực tiếp đến ngành xuất khẩu dầu khí của Nga, như việc tiếp cận các nguồn
tín dụng quốc tế, gia hạn các khoản tín dụng sẵn có của các doanh nghiệp dầu
khí Nga, các lệnh trừng phạt ảnh hưởng đến việc xây dựng và vận hành những đường
ống dẫn dầu và đặc biệt là khí tự nhiên của Nga bán sang thị trường truyền thống
châu Âu… Đặc biệt chúng ta không thể quên được cú hạ giá dầu mỏ trên thị trường
toàn cầu ngay sau thời điểm đó, đã có lúc giá dầu thô thế giới xuống mức hơn 30
đô-la Mỹ/thùng, mà chúng ta cũng biết là với công nghệ từ thời Xô-viết, ngành dầu
khí Nga chỉ có thể có lãi khi giá dầu thế giới ở mức trên 70 đô-la Mỹ/thùng.
Người ta giải thích lần hạ giá dầu này là việc tham gia vào thị trường xuất khẩu
dầu khí của những doanh nghiệp dầu khí đá phiến Mỹ, “cú ra đòn” này là thành quả
của công nghệ khai thác dầu đá phiến mà không ảnh hưởng đến môi trường, là vấn
đề vốn đang bị pháp luật Hoa Kỳ xiết rất chặt chẽ.
Từ đó đến
nay, quá trình này chưa hề dừng lại, thậm chí nhờ sự tiếp tay của đại dịch toàn
cầu Covid-19, nó còn xác lập kỷ lục mới: tháng Tư năm 2020 ghi nhận giá dầu cất
trung gian Tây Texas (WTI) giảm xuống 15,57 ĐÔ-LA Mỹ/thùng, giảm 14,83% so với
phiên trước và giảm 76,13% so với cùng kỳ năm 2019; Trong khi đó, giá dầu Brent
dao động ở mức 27,90 đô-la Mỹ/thùng. Thời điểm đó V. Putin đã rất cố gắng cùng
các nước OPEC đưa ra những nỗ lực cắt giảm sản lượng để nâng giá dầu. Kết quả
khả quan đạt được trong năm 2021: ngày 4 tháng Một giá dầu Brent biển Bắc là
51,09 đô-la Mỹ/thùng đạt đỉnh 85,82 đô-la Mỹ/thùng ngày 20 tháng Mười, và từ đó
lại bắt đầu giảm nhẹ về mức giá trên 70 đô-la Mỹ/thùng. (Nguồn: Oilprice.com)
Tuy
nhiên việc điều chỉnh giá dầu bằng cắt giảm sản lượng luôn là con dao hai lưỡi
mà bất cứ nhà xuất khẩu dầu khí nào cũng không muốn, vì nó đồng nghĩa với việc
thu hẹp thị phần, và người thiệt hại nhất luôn là người có điều kiện khai thác
khó khăn hơn, công nghệ lạc hậu hơn và chất lượng hàng hóa thấp hơn – những yếu
tố mà Nga hội đủ cả. Với Putin câu chuyện bán dầu khí chỉ thực sự có lợi với một
thị trường toàn cầu tăng trưởng nóng, dầu khoan lên bao nhiêu bán cũng hết, giá
càng cao càng bán chạy. Thời hoàng kim này – khi giá dầu thế giới ở mức trên
100 đô-la Mỹ/thùng cũng đã qua đến cỡ hai thập kỷ rồi và với xu thế hiện nay chắc
không có khả năng lặp lại – chủ yếu là do sự phát triển của công nghệ của nền
kinh tế sản xuất thế giới nói chung, đặc biệt là “công xưởng của thế giới”
Trung Quốc.
Nhắc đến
Trung Quốc, nhân tiện chúng ta bước sang một chủ đề liên quan: thế giới chắc chắn
sẽ có sự đổi vai, người mua có thể trở thành người bán, thậm chí có thể vừa là
người mua lớn nhất và ngày càng trở thành tay buôn bán máu mặt. Nếu như giá dầu
thế giới đã có những cú hạ gây sốc với sự tham gia của những doanh nghiệp dầu
khí đá phiến sét Hoa Kỳ, thì cũng đồng nghĩa với việc Trung Quốc không thể đứng
ngoài cuộc chiến. Trung Quốc với tư cách là nước có trữ lượng dầu khí đá phiến
sét lớn nhất thế giới mà xưa nay là nước nhập khẩu dầu khí cũng hàng lớn nhất
thế giới, chẳng thể giấu được sự thèm khát với mỏ vàng dưới ngay nền nhà của
mình. Vấn đề của họ chỉ còn là có “chôm chỉa” được công nghệ khai thác của Hoa
Kỳ hay không mà thôi – với công nghệ sẵn có của Trung Quốc hiện nay đang cho một
giá thành dầu khí phiến sét cao không có lợi cho kinh doanh.
Tháng Một
năm 2021, Tập đoàn Hóa chất và Dầu khí Trung Quốc (Sinopec Limited, công ty dầu
khí tính về doanh thu lớn thứ năm thế giới) đã thông báo hoàn thành giai đoạn một
dự án khí đá phiến Uy Vinh (Weirong) nằm trên địa bàn hai huyện Uy Viễn và Vinh
Huyện của các địa cấp thị Nội Giang và Tự Cống, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Dự
án này sản xuất 3,5 triệu m3/ngày, có công suất sản xuất hàng năm là
1 tỷ m3 mỗi năm, theo Sinopec. Trữ lượng đã được chứng minh là tổng
cộng 124,7 tỉ m3 ở độ sâu giếng trung bình là 3.750 mét.
Sinopec
cho biết họ đã khoan 56 giếng gắn với 8 giàn khoan trong giai đoạn đầu tiên, bắt
đầu vào cuối năm 2019. Tập đoàn thuộc sở hữu nhà nước hiện sẽ tiến hành Giai đoạn
2 với kế hoạch nâng công suất sản lượng hàng năm của Uy Vinh lên 3 tỉ m3
vào năm 2022, sản lượng được cho là đủ để đáp ứng nhu cầu nhiên liệu của 16 triệu
hộ gia đình. Còn theo nguồn tin mới nhất từ Reuter, hiện Uy Vinh đang cho sản
lượng 3,5 triệu m3 khí mỗi ngày.
Mỏ Uy
Vinh là khu phát triển khí đá phiến lớn thứ hai của Trung Quốc, sau mỏ Phù Lăng
(Fuling, địa cấp Khu thuộc thành phố Trùng Khánh,) dự án khí đá phiến thương mại
lớn đầu tiên của Trung Quốc, nằm ở phía đông gần thành phố Trùng Khánh.
Vào
tháng 11, Sinopec đã ghi nhận sản lượng khí đá phiến hàng ngày cao nhất từ
trước đến nay của Trung Quốc ở mức 20,62 triệu m3 tại Phù Lăng cung
cấp cho đường ống dẫn khí đốt Đông Tứ Xuyên và đáp ứng nhu cầu khí đốt hàng
ngày của 40 triệu hộ gia đình, theo trang web của Sinopec. Sinopec ngày
14/12/2021 cho biết họ đã bổ sung 104,88 tỷ m3 trữ lượng khí tự
nhiên mới được xác minh tại lô Bạch Mã ở mỏ khí đá phiến Phù Lăng, số liệu trữ
lượng này đã được Bộ Tài nguyên Trung Quốc chứng nhận, nâng tổng trữ lượng đã
được chứng minh của mỏ lên gần 900 tỉ m3, chiếm 34% tổng trữ lượng
khí đá phiến đã được kiểm chứng của Trung Quốc.
Rõ ràng
Trung Quốc hoàn toàn không giấu diếm tham vọng của mình, bước đầu giảm dần sự
phụ thuộc vào nguồn dầu khí nhập khẩu và tiếp theo đó là ngồi vào cùng mâm chia
chiếc bánh với các quốc gia xuất khẩu truyền thống. Chúng ta đã chứng kiến tốc
độ phát triển đáng kinh ngạc của nền kinh tế này trong bốn thập kỷ rưỡi qua, và
với mức độ “khát cả tiền lẫn năng lượng” của họ, chúng ta cũng sẽ không nghi ngờ
rằng chỉ trong một thời gian ngắn, họ sẽ qua mặt một số nhà cung cấp gạo cội,
mà Nga là một tay đua có thể đánh giá là khá ì ạch trên đường pít…
Bài trên Nhịp cầu thế giới tại đây
Ở phần trước, chúng ta đã xem xét về tương quan vai trò của các nhà xuất khẩu dầu khí truyền thống và một số đối thủ tiềm tàng trong tương lai của họ, mà đối thủ nguy hiểm nhất là Trung Quốc. Trung Quốc từ trước đến nay vẫn là nhà nhập khẩu lớn, nay nếu trở thành nhà xuất khẩu thì đồng nghĩa với một đòn kép kiểu “uyên ương cước” (một cú đá cao một cú đá thấp chẳng hạn là uyên ương cước, chân đá như chim uyên ương.) Như vậy Trung Quốc dần dần sẽ giảm nhập khẩu và tăng dần khả năng xuất khẩu…
Đến phần
này chúng ta sẽ xem xét tiếp tương quan hay cuộc chiến cạnh tranh giữa khí đốt
tự nhiên bán qua đường ống và khí hóa lỏng được bán bằng cách chuyên chở trên
những con tàu khổng lồ.
Hiện
nay, thị trường bán khí tự nhiên bằng đường ống truyền thống có thể kể đến: các
đường ống từ Mỹ đến Canada và Mexico, Bolivia đến các nước láng giềng ở Nam Mỹ,
và Bắc Phi đến Châu Âu… và tất nhiên đường ống xuất khẩu từ Nga sang Châu Âu là
nổi tiếng nhất , và ngày càng được quan tâm thậm chí gây tranh cãi.
Ngược lại,
thị trường khí đốt châu Á đã được thống trị bởi khí hóa lỏng (từ đây xin gọi là LNG.) Điều này chủ yếu là do các thị
trường truyền thống lớn nhất ở tương đối xa – Nhật Bản và Đài Loan là các hòn đảo,
và Hàn Quốc là một bán đảo bị cắt đứt tiếp cận với khí đốt đường ống. Hơn nữa,
các nỗ lực kết nối các nước châu Á thông qua mạng lưới đường ống phần lớn đã thất
bại do thiếu hụt nguồn dự trữ khí đốt trong khu vực và thiếu cơ quan điều phối
(chẳng hạn như EU ở châu Âu). Nỗ lực quan trọng nhất gần đây là Đường ống dẫn
khí xuyên ASEAN, nhưng hy vọng về một hệ thống đường ống đa quốc gia ở phía
Đông hiện đang tắt dần. Do đó, LNG, có nguồn gốc từ cả các nhà xuất khẩu tương
đối gần như Indonesia và từ các địa điểm xa hơn ở Australia và Trung Đông (chủ
yếu là Qatar) hiện đã, đang và vẫn sẽ chiếm ưu thế trong tương lai.
Một yếu
tố mà đường ống dẫn và xuất khẩu LNG có điểm chung trong lịch sử là chúng đều dựa
trên những giai đoạn phát triển đã từng phải trả giá trong nhiều năm mà sự ổn định
và phát triển của chúng chỉ có thể được đảm bảo khi có sự tham gia của hai hệ
thống: cả các tập đoàn trong ngành và các ngân hàng cung cấp tài chính; trên cơ
sở các hợp đồng dài hạn, nói chung giá khí đốt dựa trên mối liên quan đến giá dầu.
Điều này đặt ra rủi ro về khối lượng với người mua (người sẽ đảm bảo mua khí đốt
trong khoảng thời gian 20 năm chẳng hạn) và rủi ro về giá với người bán (người
sẽ cung cấp khí đốt với mức chiết khấu cho một loại nhiên liệu cạnh tranh
chính, cụ thể là dầu).
Tuy
nhiên, mô hình truyền thống này hiện đã bắt đầu phá vỡ, được thúc đẩy bởi sự ra
đời của “Gói năng lượng thứ ba ở EU,” gói này đã tự do hóa thị trường và kích thích
sự cạnh tranh giữa tất cả các hình thức cung cấp khí đốt, và sự xuất hiện của
LNG Hoa Kỳ, vốn được định giá so với giá giao ngay tại điểm Henry Hub. EU cũng
đã khuyến khích các nước thành viên tăng cường đa dạng hóa các lựa chọn cung cấp
của họ, điều này đã dẫn đến việc xây dựng nhiều cơ sở tiếp nhận, nơi LNG có thể
được điều chỉnh lại và vận chuyển vào mạng lưới đường ống.
Với sự dịch
chuyển đáng kể trên đây, chúng ta có thể thấy việc bán hàng bằng đường ống khí
đốt với những ưu điểm không thể chối cãi của nó: không phải hóa lỏng, không cần
xây dựng các điểm tiếp nhận, chỉ cần đấu nối và cấp, sau đó thu tiền… dần dần sẽ
mất đi thế thượng phong. Lại cần nhắc đến ưu điểm khó chối bỏ được của LNG là
khả năng lưu trữ lâu dài của nó, trong khi khí tự nhiên đã lấy lên nếu không
bán được cho ai thì chỉ có mà đem đốt. Với khách hàng, việc đảm bảo nguồn cung
với giá cả phải chăng đã là quan trọng, nhưng việc chủ động lưu trữ, mua lúc
giá hạ và đem ra dùng lúc giá cao, khan hiếm cũng quan trọng chẳng kém. Đồng thời
trải qua hàng chục năm phát triển, công nghệ hóa lỏng khí tự nhiên đã đến giai
đoạn (1) phát triển rất hiện đại, chi phí sản xuất thấp và (2) nhiều cơ sở sản
xuất trên khắp thế giới đã đến giai đoạn hết khấu hao. Cả hai yếu tố này đều dẫn
tới một giá thành rất cạnh tranh, trực tiếp uy hiếp khí đốt bán bằng đường ống.
Vậy
tương quan lực lượng giữa các nhà xuất khẩu LNG thế giới hiện nay ra sao? Theo
số liệu của IGU (International Gas Union, Liên hiệp khí đốt quốc tế hiện có 85
thành viên) thì thế giới hiện có 4 nhà xuất khẩu LNG lớn nhất:
Sản lượng (triệu tấn) |
Tỷ lệ (%) |
||
Australia |
77.8 |
33.92935 |
|
Qatar |
77.1 |
33.62407 |
|
Hoa Kỳ |
44.8 |
19.53772 |
87.09115 |
Nga |
29.6 |
12.90885 |
|
Tổng số |
229.3 |
|
|
Bảng
trên đây là số liệu xuất khẩu LNG và ở cột cuối cùng, con số hơn 87% là tổng của
ba nước Australia, Qatar và Hoa Kỳ cộng lại, một mình Liên bang Nga chỉ chiếm
12,9% thị phần. Con số khiêm tốn này chúng ta có thể thấy có nguyên nhân từ việc
quá quan tâm đến bán khí tự nhiên bằng đường ống, cho đến sự thua kém cả về
công nghệ hóa lỏng khí tự nhiên và việc đầu tư thích đáng đội tàu chở LNG, và
cuối cùng là vị trí địa lý. Hiện nay Liên bang Nga chỉ có hai điểm hóa lỏng khí
tự nhiên, một ở Sakhalin và một ở bán đảo Yaman thuộc vùng Bắc Cực. Riêng điểm
Yaman vừa là điểm hóa lỏng khí, vừa là điểm tiếp nhận LNG cùng với điểm
Murmansk là hai điểm biến thành khí để đốt được của Liên bang Nga. Như vậy muốn
bán LNG sang châu Âu là khách hàng tiềm năng nhất và truyền thống nhất, với tuyến
đường ngắn nhất, Nga phải đầu tư những tàu chở LNG có khả năng phá băng. Hiện Tập
đoàn Yamal của Liên bang Nga đang sở hữu đội tàu còn hoạt động (tính đến tháng
Mười năm 2019) là 16 chiếc.
Đến đây,
tôi sẽ không nghi ngờ rằng với tiềm năng của mình, với số lượng đầu tiếp nhận
LNG dồi dào nhưng có thể biến thành cơ sở hóa lỏng khí tự nhiên Trung Quốc sẽ
trở thành tay chơi đáng ngại trong ván bài năng lượng thế giới. Hiện nay Trung
Quốc với số lượng đầu tiếp nhận LNG là 18 điểm trong đó có những điểm rất gần
đường ống khí tự nhiên Hắc Hà – Thượng Hải (Hắc Hà, một địa cấp thị tỉnh Hắc
Long Giang, điểm đấu nối tiếp nhận khí đốt của dự án đường ống “Sức mạnh
Siberia – 1”) để có thể hóa lỏng khí và xuất khẩu trực tiếp, như Đại Liên (Liêu
Ninh) (1 điểm,) Thanh Đảo (Sơn Đông) (1 điểm,) Thiên Tân (2 điểm) và các điểm
xa hơn nhưng vẫn nằm trên trục này: Thượng Hải (1 điểm,) Triết Giang (2 điểm,)
Giang Tô (2 điểm,) Hà Bắc (1 điểm.) Nhu cầu hóa lỏng khí của Trung Quốc hoàn
toàn có thật vì tính phát triển nóng của kinh tế nước này cùng tính chất khí hậu
đa dạng nhiều vùng khắc nghiệt, đem tới nhu cầu dự trữ khí đốt để đảm bảo tính
chủ động. Với sự cung cấp khí tự “nhiệt tình” của Nga thì trong tương lai việc dự
đoán việc Trung Quốc xuất hiện trên thị trường LNG như một nhà cung cấp nặng
ký, hoàn toàn có cơ sở.
Nga lúc
đó sẽ giống như một thuộc địa bị bòn rút tài nguyên cung cấp cho… mẫu quốc theo
đúng kiểu chủ nghĩa thực dân cũ man rợ khi chỉ bóc lột nguyên liệu thô. Như vậy
nếu muốn nói có chuyện giảm cái này tăng cái kia, có thể là việc Nga giảm bán bằng
đường ống cho châu Âu và tăng bán cho Trung Quốc, còn Trung Quốc có khi trở
thành nhà cung cấp cho những khách hàng lâu đời của khu vực Đông Nam Á như Việt
Nam, Thái Lan hay Myanmar, thậm chí có thể là Ấn Độ.
Câu hỏi ở
đây sẽ là, liệu châu Âu có giảm được nhu cầu mua khí tự nhiên thông qua các đường
ống của Nga, ví dụ như đường ống quá cảnh Ukraine và Ba Lan truyền thống? Về
lâu dài, nhiên liệu hóa thạch sẽ phải được loại bỏ dần để tuân thủ các mục tiêu
khí hậu của Thỏa thuận Paris. Nhưng người ta cũng đánh giá rằng, dựa trên hệ thống
truyền thống này khí đốt tự nhiên có thể đóng một vai trò ngày càng tăng trong
hệ thống năng lượng của Đức sau khi quốc hội Đức quyết định về việc loại bỏ các
nguồn năng lượng liên quan đến đốt than vào tháng Bảy năm 2020. Điều này làm
gia tăng mâu thuẫn giữa một bên là các biện pháp trừng phạt của phương Tây dành
cho Nga, một mặt là chính sách năng lượng của riêng nước Đức. Hơn nữa, Đức – và
các nước châu Âu khác – đã và đang hỗ trợ mở rộng hơn nữa cơ sở hạ tầng khí đốt
tự nhiên song song với cả đường ống và thiết bị đầu cuối cho LNG.
Hiện trạng
này cho thấy châu Âu đang và vẫn sẽ là khách hàng tiềm năng của khí đốt nói
chung, khí tự nhiên cấp bằng đường ống nói riêng và nguồn nhập khẩu chính khí đốt
tự nhiên là từ Nga. Các nước Liên minh châu Âu tiêu thụ khoảng 400 tỷ m3
khí tự nhiên mỗi năm, mà hơn 85% đến từ các nguồn bên ngoài bên ngoài Liên minh
Châu Âu. Khoảng một nửa nhập khẩu của EU đến từ Nga, khoảng một phần ba từ Na
Uy và khoảng 10% từ Algeria. Đức tiêu thụ khoảng 80 đến 90 tỉ m3 mỗi
năm, được nhập khẩu chủ yếu từ Nga và Na Uy. Nhập khẩu của EU chủ yếu cấp bởi đường
ống dẫn (khoảng 85%) và một phần tương đối nhỏ khoảng 15% là LNG.
Từ sau
khi nổ ra cuộc khủng hoảng Crimea, tình hình xung đột với phương Tây về vấn đề
Ukraine đã làm cho nước Nga của Putin đi đến nước cờ rất hay với đường ống đầu
tiên: “Dòng chảy Phương Bắc – 1” (“Nordstream – 1”) trên biển Baltic bắt đầu hoạt
động vào năm 2011 (công suất: 55 tỉ m3 mỗi năm). Với đường ống “Dòng
chảy Phương Bắc – 2” mới xây dựng đang chờ được hoạt động (công suất dự kiến:
55 tỉ m3/năm) cũng như đường ống “Dòng chảy Thổ Nhĩ Kỳ” (“TurkStream”) ở Biển
Đen được xây dựng đồng thời đến Thổ Nhĩ Kỳ và Đông Nam Âu (công suất dự kiến:
31,5 tỉ m3/năm,) Nga hoàn toàn có thể tránh sử dụng đường ống cũ qua
lãnh thổ Ukraine.
Với nhu
cầu dài hạn đối với khí tự nhiên ở khu vực thì những đường ống bổ sung có cần
hay không, là một vấn đề đáng đặt câu hỏi. Nếu nhu cầu khí đốt tự nhiên ở châu
Âu được duy trì ổn định ở mức hiện tại, thì thị phần xuất khẩu của Nga và Na Uy
ở châu Âu và Đức hầu như không thay đổi. Đây là kết quả của các tính toán với “Mô
hình Khí đốt Toàn cầu” thường xuyên được sử dụng để điều tra các kịch bản cho sự
phát triển lâu dài của thị trường khí đốt tự nhiên châu Âu. Sản lượng khí đốt tự
nhiên từ Nga và cả Na Uy bán cho các nước Liên minh châu Âu sẽ tiếp tục giảm và
sẽ được bù đắp bằng khí tự nhiên nhập khẩu từ Bắc Phi và LNG; song song với sự
khẳng định về xu thế không thể đảo ngược của tiến trình “thoát khí” (như trước
đây người ta đã từng thoát khỏi than là nguồn năng lượng sưởi ấm chính) xây dựng
cơ cấu hạ tầng năng lượng xanh thì có thể nói những đường ống lớn mới như “Dòng
chảy Phương Bắc – 2” hoặc “Dòng chảy Thổ Nhĩ Kỳ” thực sự là không cần thiết.
Như vậy
nếu có gì đó là cần thiết và tận dụng được, chỉ là một mình nước Đức sẽ tận dụng
và mua khí của Nga qua “Dòng chảy Phương Bắc – 2” nhưng không phải theo cách
trước đây là vừa bán vừa dọa, mà sẽ là một cách khác. Nước Nga của Putin trên
bàn cờ năng lượng quốc tế sẽ không còn vị thế “không mua của tôi thì anh chết
rét” nữa, mà sẽ càng ngày càng phụ thuộc. Đó là sự phụ thuộc vào Đức, nơi điểm
cuối cùng đấu nối của “Dòng chảy Phương Bắc – 2” và kinh khủng hơn là sự phụ
thuộc vào Trung Quốc, tên thực dân mới vẫn theo kiểu bóc lột cũ.
Là một
người Việt yêu nước Nga, tôi phải lấy làm tiếc phải nhận định rằng nước Nga rất
giàu tài nguyên, nhất là về dầu khí nhưng cho đến nay vẫn dừng ở mức hút lên
đem bán, chứ không làm được những cú ngoạn mục về công nghệ như Hoa Kỳ với dầu
đá phiến hay kể cả thượng thừa chôm chỉa công nghệ như Trung Quốc đối với khí
đá phiến và cả câu chuyện gian xảo tiềm tàng “mua khí tự nhiên biến thành LNG”
của họ hiện nay…
Bài trên
Nhịp cầu thế giới tại đây và tại đây
Bài trên Fanpage tại đây
Bài trên Facebook tại đây
Tài liệu
tham khảo:
https://www.telegraph.co.uk/business/2022/01/01/russia-looks-east-china-link-threatens-inflame-europes-gas-crisis/
https://www.express.co.uk/news/science/1544090/putin-news-russia-china-gas-deal-eu-energy-crisis-ukraine-power-of-siberia-nord-stream-2
https://commons.wikimedia.org/wiki/File:Power_of_Siberia_Map.png
https://www.igu.org/about/
https://www.reuters.com/business/energy/chinas-sinopec-adds-new-shale-gas-reserve-fuling-field-2021-12-14/
https://www.reuters.com/article/us-china-shalegas-sinopec-idUSKBN29B0CN
https://www.diw.de/documents/publikationen/73/diw_01.c.794609.de/diw_focus_5.pdf
https://energy.economictimes.indiatimes.com/news/oil-and-gas/chinas-sinopec-corp-finds-shale-oil-reserves-at-shengli-field/87499034
https://www.worldoil.com/news/2020/4/13/russia-paid-a-heavy-price-to-end-the-oil-price-war
https://www.reuters.com/business/energy/chinas-sinopec-adds-new-shale-gas-reserve-fuling-field-2021-12-14/
https://www.offshore-technology.com/news/chinas-sinopec-gas-discovery-sichuan-basin/
https://jpt.spe.org/sinopec-finishes-phase-1-of-chinas-second-biggest-shale-project
https://oilprice.com/oil-price-charts/
https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_LNG_terminals
https://vietnamtimes.org.vn/world-oil-prices-dropped-to-15-usdbarrel-a-record-low-in-the-past-20-years-19594.html
No comments:
Post a Comment