Monday, May 9, 2016

Trung Quốc và Nga cần gì ở nhau trước “vụ kiện Biển Đông?”

Ảnh vệ tinh chụp ngày 14/2 (trái) 
cho thấy một số bệ phóng 
tên lửa đất đối không 
ở đảo Phú Lâm của Việt Nam. 
Ảnh: ImageSat International
Càng gần đến này Tòa án trọng tài quốc tế (PCA) ở Hague (Hà Lan) ra phán quyết về vụ Philippines kiện Trung Quốc về tranh chấp giữa hai nước xung quanh một số vị trí (bãi, đá) ở quần đảo Trường Sa, dư luận quốc tế lại càng quan tâm đến động thái của Trung Quốc.

Đặc biệt trong những ngày gần đây, hai ông Ngoại trưởng Nga và Trung Quốc hun nóng dư luận khu vực Đông Nam Á và cả Việt Nam về những tuyên bố tập trung vào việc “không được quốc tế hóa những vấn đề liên quan đến tranh chấp ở khu vực Biển Đông.” Phát ngôn được đưa ra trong thời điểm trước khi PCA sẽ đưa ra phán quyết, mà như chúng ta đã biết Trung Quốc đã chống việc này ngay từ đầu bằng cách không công nhận thẩm quyền của Toà PCA.

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta sẽ không đủ điều kiện đi sâu vào nghiên cứu các chi tiết của vụ kiện cũng như đánh giá khả năng thắng – thua của các bên, mà người viết bài mong muốn cùng độc giả đánh giá những nỗ lực của Trung Quốc cũng như sự can dự của Nga vào trong bối cảnh này thực sự nhằm những mục tiêu gì.

Về tổng thể, khi đệ đơn lên Tòa án hồi đầu năm 2013, Philippines đã nghiên cứu rất kỹ và rất khôn ngoan khi đưa ra yêu cầu đề nghị Tòa ra phán quyết. Điểm khôn ngoan đầu tiên ở đây cần được nêu bật, chính là những yêu cầu không nhằm vào tuyên bố chủ quyền vì điều đó sẽ rất có thể bị Tòa án bác, không thụ lý vụ kiện. Yêu cầu quan trọng nhất của Philippines là đề nghị Tòa tuyên bố “đường lưỡi bò” (’cửu đoạn tuyến”) mà Trung Quốc vẫn đưa ra yêu sách ôm trọn cả quần đảo Trường Sa, nghĩa là chiếm gần hết Biển Đông là không có căn cứ pháp lý. Ngoài ra là các yêu cầu khác của Philippines liên quan đến một số bãi, đá… cụ thể.

Từ năm 1988 là năm của sự kiện Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma đến nay, Trung Quốc là nước luôn luôn gây ra những tranh chấp ở khu vực Trường Sa, bằng đủ các thủ đoạn như chiếm đảo bằng quân sự, thực hiện các hành động “chấp pháp” (nhưng phi pháp,) tôn tạo các đá nửa nổi nửa chìm thành các đảo nhân tạo, quân sự hóa quần đảo Trường Sa… Những hành động đó thường xuyên gây bất ổn trong khu vực làm cho căng thẳng ngày một leo thang, đến mức các nước liên quan phải thường xuyên tổ chức các cuộc hội đàm, đàm phán song phương riêng với Trung Quốc hoặc đa phương để giải quyết tranh chấp. Trước đây, một khi đã ngồi vào bàn, thì Trung Quốc luôn thể hiện một thái độ nước lớn cứng rắn không nhượng bộ, để kết cục cuối cùng luôn không có được thỏa thuận nào hết, và “gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác” thường là kết quả mà Trung Quốc mong muốn. Chiến thuật đó là của thời kỳ trước, từ thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI, thái độ của Trung Quốc đã thay đổi theo hướng hung hăng hẳn lên, với những hành động tôi đã liệt kê trên đây. Chúng ta còn nhớ cách đây 2 năm Trung Quốc đã cho giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào khoan thăm dò trong vùng đặc quyền kinh tế thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam tạo nên một làn sóng phản đối trong dư luận Việt Nam như thế nào.

Có một đặc điểm, một mặt Trung Quốc hành xử kiểu nước lớn “lấy thịt đè người” nhưng lại không hề nước lớn, quân tử trong nỗ lực giải quyết triệt để “vấn đề Biển Đông,” nghĩa là “ba mặt một lời” hội đàm với tất cả các nước liên quan trong khu vực có thể có các quan sát viên hoặc trọng tài quốc tế. Trái lại, Trung Quốc thường xuyên muốn chia nhỏ Biển Đông ra thành nhiều phần, phần nào liên quan đến nước nào thì “giải quyết riêng” với nước đó – một cách hành xử rất thiếu minh bạch. Chia nhỏ ra, thì “vừa miếng” và dễ nuốt. Thỏa thuận, riêng rẽ, nước nào cũng nhỏ hơn và đều có những điểm yếu trước Trung Quốc. Người Trung Quốc quá rành triết lý chia bó đũa ra để bẻ từng chiếc…

… Đường chín đoạn của Trung Quốc tuyên bố gọn gàng cả quyền đảo có nhiều nước liên quan, chiếm gần hết một vùng biển làm 1/3 thương mại hàng hải thế giới đi qua nó và là vùng hàng không nhộn nhịp không kém, thì vùng biển này có ảnh hưởng đến an ninh của toàn cầu, không thể chỉ liên quan đến cặp nước nào, hay vài nước trong khu vực. Những tranh chấp hiển nhiên chỉ thuộc hai nước thì không lạm bàn, nhưng yêu sách đòi gần như hết Biển Đông đặc biệt với “cửu đoạn tuyến,” không thể không quốc tế hóa. Việc Philippines không đàm phán được với Trung Quốc và đưa ra PCA, chính là một việc làm cần thiết, khôn ngoan và hợp pháp. Khi giải quyết tranh chấp quốc tế, kiện ra một Tòa án quốc tế bao giờ cũng là một biện pháp hữu hiệu đối với nước nhỏ trong trường hợp vững về pháp lý nhưng bị bắt nạt.

Về quan hệ quốc tế, cho đến nay vai trò của Trung Quốc đối với khu vực Biển Đông, chỉ là gây bất ổn, không yên tâm, nhất là cho các nước Đông Nam Á liên quan. Người ta thường nói đến “các biện pháp xây dựng lòng tin” nhưng làm sao mà tin được một nước thường xuyên tự gây ra tranh chấp để bắt nước khác đàm phán, rồi lại “gác lại;” được một thời gian lại gây ra tranh chấp khác? Với chính sách của mình ở thời điểm đầu năm 2016 này “trước vụ kiện Biển Đông,” chưa bao giờ Trung Quốc lại bị cô lập như vậy.

Đó là vị trí của Trung Quốc trên trường quốc tế hiện tại – sân chơi chính của Trung Quốc vẫn là các vùng biển xung quanh nước này: Biển Hoa Đông và Biển Đông; chưa thể vươn ra các vùng xa hơn được. Trung Quốc là nước ngoài vị thế quan trọng của “công xưởng thế giới” và một thị trường gần một tỷ rưỡi người, thì còn là một nguyên nhân gây “không yên tâm” thường xuyên cho các hàng xóm cũng như các nước có lợi ích như Hoa Kỳ, Australia… với chiến lược thường xuyên đưa ra yêu sách và gây bất ổn. Năm 2015 cũng là năm kinh tế của Trung Quốc giảm tốc đáng báo động, những sức ép về xã hội trong nước ngày càng gia tăng như tàn phá môi trường hay hố sâu ngăn cách giàu nghèo… các yếu tố bất ổn trong nước manh nha xuất hiện như những cú đánh bom khủng bố được cho của người Tân Cương thực hiện… Người ta còn đồn đoán là những vụ nổ nhà máy liên tiếp là do phá hoại bắt nguồn từ kinh tế suy thoái mà người ta vỡ nợ và cho nổ...    

Quay trở lại với nước Nga, hai năm sau khi sáp nhập Crimea của Ukraine cũng là hai năm chịu đựng lệnh trừng phạt của Phương Tây, gián tiếp liên quan đến chiến sự Đông Ukraine, trực tiếp tham chiến ở Syria mà họ gọi là chống IS và suốt hai năm đó là sự mệt mỏi vì một giá dầu thấp… Một nước Nga ở vị thế rất giống Trung Quốc, khi những “vệ tinh” thời Xôviết ngày càng xa rời nó và đi về cực khác của thế giới. Nước Nga vùng lên từ thời ốm yếu Eltsin, mạnh mẽ trở lại dưới thời Putin, và cũng không giấu diếm những tham vọng của nó. Nước Nga thời Putin muốn tuyên bố với Hoa Kỳ và những người đồng minh rằng: “Hãy tôn trọng không gian Xô viết cũ của chúng tôi, thì chúng tôi sẽ tôn trọng trật tự các vị lập nên ở phần còn lại của thế giới.”

Đáng tiếc là mọi thứ trên thực tế không được như vậy, mà không gian đó ngày càng bị thu hẹp do sự tự xa rời của các vệ tinh, những nước có thái độ rõ ràng luôn về việc hướng về châu Âu như ba nước vùng Baltic, Moldova, Gruzia và nhất là Ukraine. Mỗi bước tiến của NATO về phía đông lại càng làm cho ông chủ điện Kremli không thoải mái thêm một chút. Hai năm qua, nước Nga bớt đi nhiều bạn như Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraine… nhưng chỉ được thêm một ông bạn Trung Quốc mà ai cũng… sợ.

Gác lại một bên những nghi ngại về một người láng giềng Trung Quốc luôn luôn muốn thôn tính đất đai, mà ở vào thế kỷ XXI là bằng học thuyết “biên giới mềm,” tràn hàng vạn người sang nước khác, và cũng nhăm nhe lôi kéo nốt cả các vệ tinh Trung Á của nước Nga, nước Nga giờ đây cũng cảm thấy đơn độc và buộc phải tìm sự nồng ấm ở Trung Nam Hải.

Tất nhiên, nước Nga cũng có chính sách “Trục Châu Á Thái Bình Dương” của mình, dấu hiệu rõ nhất là gần đây Hạm đội Thái Bình Dương của nước này đã xúc tiến xây dựng thêm căn cứ quân sự trên đảo Kuril vốn tồn tại tranh chấp với Nhật Bản. Đó là bối cảnh mà ông Sergei Lavrov tuyên bố về lập trường của Nga “những nỗ lực quốc tế hóa giải quyết tranh chấp Biển Đông cần phải được chấm dứt.”

Với việc rõ ràng lập trường như vậy, Nga đã tìm được tiếng nói chung với Trung Quốc, trong vị thế của hai thành viên Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc; họ có thể đồng thanh mà tuyên bố Tòa trọng tài PCA không có thẩm quyền trong “vụ kiện Biển Đông” mà Philippines là nguyên đơn. Mặt khác, có thể Nga sẽ hành xử tương tự Trung Quốc trước mắt trong quan hệ với Nhật Bản, nghĩa là tranh chấp tay đôi thì đừng anh nào xía vô. Quan trọng hơn cả, là “nói thẳng vào mặt” Hoa Kỳ, anh hãy đứng ngoài đừng can thiệp vào khu vực này. Và biết đâu, chính Nga cũng đang “chuẩn bị tinh thần” cho việc phải đối mặt với những vụ bị kiện tiềm tàng trong tương lai?

Vấn đề là Lavrov nói sai: “Lập trường của Nga trong vấn đề Biển Đông là, tất cả các bên liên quan đều phải tuân thủ nguyên tắc không sử dụng vũ lực, tiếp tục tìm kiếm con đường giải quyết bằng chính trị ngoại giao mà các bên đều có thể chấp nhận được” – nhưng câu chuyện giữa Philippines và Trung Quốc đã vượt quá giai đoạn “giải quyết bằng chính trị và ngoại giao” mà không tìm được giải pháp mà chuyển sang giai đoạn dùng biện pháp pháp lý rồi. Chúng ta khó có thể tưởng tượng ngoại trưởng của một nước lớn như Nga lại có thể phát biểu không cần biết những nguyên tắc của luật pháp quốc tế đến vậy. (Mặc dù sau đó chính ông ta lại viện dẫn đến UNCLOS!) [1] [2]

Nếu lập trường Nga – Trung Quốc đối với Biển Đông là nhất quán, thì những phát ngôn Lavrov – Vương Nghị mấy ngày gần đây, chỉ thể hiện rõ ràng cách hành xử của Trung Quốc nếu thua kiện: phớt lờ, tức là “đánh bài cùn.”

Bất ngờ nhất của chuỗi sự kiện, là cuộc họp thường niên ngoại trưởng Nga, Ấn Độ và Trung Quốc vừa được tổ chức ở Matxcơva trong 2 ngày 18-19/4/2016 cả 3 ngoại trưởng đã ra thông cáo chung mà nội dung vẫn về điều chúng ta đang bàn, là “chống quốc tế hóa giải quyết tranh chấp Biển Đông.” Chỉ tuần trước thôi trong tuyên bố chung giữa bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và Ấn Độ, New Delhi đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề “an ninh và quyền tự do lưu thông hàng hải, trong đó có Biển Đông.” Về “yếu tố” Ấn Độ với Biển Đông, còn quá sớm để đưa ra lời đánh giá nhưng đáng chú ý là từ 2002 đến nay đây là lần đầu tiên Ngoại trưởng ba nước này ra thông cáo chung. [3] Hơn nữa, quan hệ giữa Việt Nam và Ấn Độ gần đây cũng khăng khít hơn rất nhiều cả về hợp tác quân sự lẫn hoạt động kinh tế liên quan đến Biển Đông. Hoặc đơn giản hơn, tuyên bố của ba Ngoại trưởng có khi lại là “tưởng bom tấn hóa ra pháo xịt” – nghĩa là Trung Quốc chỉ cần sự ủng hộ bằng mồm của hai nước kia, còn Nga và Ấn thì “chẳng mất gì, cứ nói cho đối tác vui bụng?” Điều này sẽ đúng hơn với Ấn Độ, còn với Nga thì tôi luôn cho rằng nước này có ý đồ rõ ràng.

Một trật tự thế giới đa cực mới đang hình thành rõ nét, mà cả Nga, Trung Quốc lẫn Ấn Độ đều muốn trở thành một cực? Và Hoa Kỳ thì đang ở đâu vậy? Những sự kiện xảy ra vào đúng thời điểm nước Mỹ đang bận rộn theo dõi các ứng cử viên tổng thống, thời điểm cuối nhiệm kỳ của một vị tổng thống bị đánh giá là hiền lành và thiếu hữu hiệu trong chính sách đối ngoại chắc hẳn sẽ không có những hành động mạnh mẽ đối với những gì đang và sắp diễn ra ở Biển Đông? 

Hoa Kỳ sẽ không bao giờ có hành động can thiệp trực tiếp – lần này là vào vụ việc cụ thể là “vụ kiện Biển Đông” của Philippines với Trung Quốc tại PCA, vì một lẽ đơn giản là Hoa Kỳ mới chỉ là quốc gia ký UNCLOS năm 1994 [4] nhưng chưa phê chuẩn. Điều này làm cho Hoa Kỳ sẽ là nước đứng ngoài tất cả các hoạt động tài phán có áp dụng hoặc liên quan đến UNCLOS. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ hành động bất chấp luật pháp quốc tế, mà quốc gia dù chưa phê chuẩn vẫn có thể tự nguyện thực hiện các nguyên tắc của một Công ước như bình thường. Lập trường của Hoa Kỳ là nhất quán, sẽ bảo vệ quyền đi lại tự do trên biển và trên không theo các nguyên tắc của pháp luật quốc tế.

Ngoại trưởng TQ Vương Nghị, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov 
và Ngoại trưởng Ấn Độ Sushma Swaraj 
tại cuộc họp thường niên tại Nga ngày 18 – 19/4 vừa qua. Ảnh: Sputnik  
Do đó chúng ta đã thấy trước những hành động quân sự hóa Biển Đông, như những vụ xây sân bay hay tôn tạo các đá lúc nổi lúc chìm biến chúng thành đảo nhân tạo của Trung Quốc, Hoa Kỳ cho tàu và máy bay tuần tiễu, theo phương châm “sẽ có hành động thực tế” và “đã nói là làm.” Nhưng trước một nước Mỹ bận rộn của năm 2016, chắc chắn không thời điểm nào tốt hơn cho Nga để thi hành “Xoay trục Châu Á Thái Bình Dương” và chúng ta đang hiểu, Nga có vẻ rất muốn chọn đối tác cùng thực hiện “xoay trục” là Trung Quốc.

Nếu thực sự là như vậy, Nga sẽ đánh mất những người bạn thân thiết nhất của mình ở Đông Nam Á. Việt Nam hiện nay vẫn là người bạn đáng tin cậy của Nga, có thể nói là đồng minh truyền thống, đặc biệt trong trang bị vũ khí khi nước này vẫn là nhà cung cấp chính. Nhưng nếu trong tương lai với những bước dịch chuyển lớn của tình hình, như TPP [5] được phê chuẩn và Hoa Kỳ bỏ cấm vận đối với Việt Nam về vũ khí sát thương. Lúc đó thì không còn gì có thể đảm bảo cho Nga có được một chỗ đứng vững chắc trong khu vực như hiện nay nữa.

Chú thích:

[1] United Nations Convention on the Law of the Sea, “Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển” năm 1982.

[2] Lavrov cho biết: “Lập trường của Nga trong vấn đề Biển Đông là, tất cả các bên liên quan đều phải tuân thủ nguyên tắc không sử dụng vũ lực, tiếp tục tìm kiếm con đường giải quyết bằng chính trị ngoại giao mà các bên đều có thể chấp nhận được.

Cần phải dừng lại mọi hành vi can thiệp vào hoạt động đàm phán trực tiếp của các bên liên quan hòng quốc tế hóa những vấn đề này. Chúng tôi tích cực ủng hộ Trung Quốc và các nước ASEAN lựa chọn giải pháp trên, đầu tiên là phải căn cứ vào Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).

Ngoài ra, còn có Tuyên bố chung về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) mà ASEAN và Trung Quốc ký năm 2002. Sau đó, là nhận thức chung mà Trung Quốc và ASEAN đã đạt được năm 2011.

Theo những gì tôi biết, hiện nay Trung Quốc và ASEAN đang đàm phán về bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), trong đó quy định nghĩa vụ pháp lý của các bên.

Tôi cho rằng đó là phương án khả thi duy nhất. Tôi từng nhiều lần tham dự các diễn đàn hợp tác khu vực như khuôn khổ hội nghị thượng đỉnh Đông Á, hợp tác an ninh giữa ASEAN với các đối tác. Trong những hoạt động này tôi thường thấy có người muốn quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông.

Tôi tin rằng đó là việc làm vô ích. Chỉ có đàm phán, con đường mà Trung Quốc và ASEAN đã đi, mới có thể mang lại kết quả cho các bên, đó chính là một thỏa thuận mà các bên chấp nhận được.”


Bài trên Tuần Việt Nam tại đây

Tham gia thảo luận trên Facbook tại đây 

No comments:

Post a Comment