Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma

Thời gian không đợi ai. Kể từ khi chào đời, chúng ta cứ từng phút từng giây tiến đến gần đoạn kết, về cái chết. Đời sống con người là như vậy, thế giới này, vũ trụ này, tất cả đều như vậy cả…

Tâm của chúng ta đây, cho dù hiện tại chứa đầy vô minh và khổ đau, vẫn có thể chuyển thành tâm giác ngộ của một đấng Phật đà. Nếu nói về vật chất tiền tài thì đúng là nên tri túc, đừng ham muốn. Nhưng trên lĩnh vực tâm linh, vì tiềm năng của tâm thức con người không giới hạn mà đời sống thì lại có hạn, cho nên phải cố gắng tối đa, tận dụng khoảng thời gian sống ngắn ngủi để làm hết những gì tâm có thể làm được, nhờ kiếp người quý giá này…

Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma

Tuesday, June 12, 2018

“Luật An ninh mạng 2018” nói lên điều gì và đáng sợ như thế nào?


Thế là Luật An ninh mạng đã được thông qua. Cùng với cơn lốc chống “Luật đặc khu” thì “Giang cư mận” (cư dân mạng, từ mình vừa học được hôm qua!) chống luôn cả luật này. Vậy nó có đáng để bị đối xử như thế không?

Phải nói thẳng, nó bị chống là đúng, vì nó đã nhầm lẫn về mặt đối tượng và khái niệm. Khái niệm an ninh mạng phải từ góc độ đảm bảo một hoạt động mạng internet an toàn, chống xâm nhập và tấn công, làm tổn hại về thông tin, vật chất, thân thể... của các cá nhân và tổ chức. Còn luật An ninh mạng 2018 vừa được thông qua, hướng tới các nội dung được chia sẻ trên mạng mà chủ yếu là chống việc “nói xấu Đảng và Nhà nước.”

Vô hình trung, Luật an ninh mạng đã vi phạm vào một quyền cơ bản nhất trong hệ thống các quyền con người, là quyền được nói lên chính kiến của mình, hay quyền tự do ngôn luận. Trên thực tế, việc “nói xấu” bất kỳ ai, dù bằng hình thức nào, ở môi trường nào, từ việc thả tờ rơi truyền thống đến bây giờ là viết “trạng thái” trên mạng xã hội Facebook, đã có Bộ luật hình sự quy định rõ về tội vu khống người khác. Luật an ninh mạng chỉ mở đường cho cơ quan chức năng dễ dàng hơn trong điều tra, thu thập chứng cứ: từ việc yêu cầu các nhà cung cấp các dịch vụ mạng xã hội, email… phải sẵn sàng cung cấp thông tin bất cứ lúc nào về một “tài khoản” nào đó đang sử dụng dịch vụ của mình; cũng như bắt buộc phải đặt máy chủ ở Việt Nam.

Vậy chúng ta sẽ phải đặt giả thiết, nếu các công ty đó như Facebook và Google không muốn đặt máy chủ ở Việt Nam, thì sẽ ra sao? Về lý thuyết, để đảm bảo tính hiệu lực của luật, nhà chức trách Việt Nam sẽ phải chặn kỳ cùng dịch vụ của các nhà cung cấp đó, điều đó có nghĩa người dùng Việt Nam sẽ không còn được dùng Facebook và Google nữa. Và điều đó cũng đồng nghĩa với việc nồi cơm của các doanh nghiệp như Viettel, VNPT và FPT là ba nhà cung cấp dịch vụ đường truyền internet ở Việt Nam, bị vẹt đi một góc khá to, thậm chí đến mức gần hết. Chết đói thì chưa, nhưng ngắc ngoải là có thể.

Và khi đó chúng ta hãy hình dung, là một đất nước ở điều kiện kinh tế khó khăn như Việt Nam hiện nay, một “cú” như thế thì khác nào tự bóp dạ dày của mình. Chúng ta đang bước vào thời kỳ mạng xã hội len lỏi vào từng ngóc ngách đời sống, đến bà hàng rau muống lẫn cô bán trứng vịt cuối chợ, đều xài smartphone và lướt Phây nhoay nhoáy. Không cho dùng mạng xã hội nữa, thì họ cũng bỏ luôn cả vào mạng nói chung, chứ mấy chị đó ai dùng email và đó, nhà mạng thất thu.

Luật còn đưa ra yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội như Facebook phải xóa những nội dung không tốt, và chắc chắn những nội dung “nói xấu” trên đây sẽ nằm trong tầm ngắm. Cái gì cũng có hai mặt, như những nội dung đồi trụy, hay những trò lừa đảo trên mạng xã hội mà được xử lý rốt ráo, thì quá tốt. Mặt khác, những cái mà công chúng muốn biết và chưa được biết, nếu cần cũng bị xóa luôn - ảnh hưởng đến quyền tiếp cận thông tin của con người.

Chuyện này đã từng xảy ra rồi: vụ cái anh chàng MC nào đó tên là MT bị cho rằng đã có hành vi đánh cô em gái vợ - những chia sẻ liên quan đã biến mất trên tường một số bạn Facebook của tôi. Người ta nghi ngờ Quản trị Facebook Việt Nam đã có tác động nào đó để có được sự “biến mất” này.

Con người ngoài các nhu cầu về ăn, ở, mặc, học hành, đi lại… nhưng còn có một nhu cầu không thể thiếu, là nhu cầu giao tiếp xã hội. Thiếu nó, con người sẽ quay trở lại gần hơn với đời sống của con thú, mà giao tiếp bằng thân người, bằng xúc chạm cọ xát, bằng những tiếng ú ớ… Nếu chỉ xét về nhu cầu giao tiếp thuần túy, thì Luật an ninh mạng chưa có ảnh hưởng gì nhiều: nếu cứ anh anh em em, dùng mạng xã hội làm nơi đong đưa ong bướm thì vô tư đê, chẳng ai quan tâm. Nhưng những chuyện liên quan đến chính trị, những tiêu cực xã hội… thì hãy dè chừng. Ranh giới giữa nói xấu và nói… bình thường rất mong manh.

Vậy định nghĩa “nói xấu” là gì? Là nói không tốt về người khác nhằm hạ uy tín của họ - tra từ điển thấy thế. Vậy “nói xấu trên mạng xã hội” thực sự là cần hay không cần, tốt hay không tốt? Việc hạn chế này có ảnh hưởng đến quyền được phản biện hay cấm phản biện xã hội?

Ví dụ, nếu một quyết sách của Đảng và Nhà nước được đưa ra, như Luật Đặc khu, thì đương nhiên cần được phản biện – nhưng phản biện phải ra phản biện, có phân tích, có căn cứ đàng hoàng. Như hồi “chủ trương đúng đắn của Đảng ủy và chính quyền thành phố Hà Nội” là chặt cây thay cây mới, do áp lực của mạng xã hội mà phải dừng bất chấp tính… đúng đắn của nó, việc phản biện một chủ trương như vậy là hoàn toàn cần thiết và cần được ủng hộ. Người đưa ra quyết sách có quyền đánh giá nó là đúng đắn, nhưng khi được phản biện khoa học thì đúng đắn đó trở thành đánh giá chủ quan và việc dừng nó lại cũng là bình thường.

Thế nhưng, văn hóa phản biện của người Việt Nam thì thực sự rất sơ khai và chẳng bao giờ hình dung ra được, chưa nói là dừng lại được trước những ranh giới giữa phản biện đàng hoàng và sa vào công kích cá nhân. Thực sự, những gì mà người ta dành cho nhau thôi trên mạng xã hội đã đủ để kiện nhau chết thôi rồi, nếu như chúng ta sống trong một xã hội văn minh hơn, có nền tố tụng tranh tụng đúng nghĩa; chưa nói đến việc… nói xấu lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Chúng ta có quyền phân tích ưu nhược điểm của một quyết sách, có quyền chỉ ra những tiêu cực trong hành xử của cơ quan công quyền và từng cá nhân trong đó, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta được xỉ vả họ là người thế này thế khác, hoặc nói ra những điều mà bản thân chúng ta chỉ nghe hơi nồi chõ, như ông X bà Y có từng này tiền, ăn chặn của cấp dưới thế này, sân sau thế kia… tất cả những điều đó có thể có, nhưng một khi pháp luật chưa đụng đến, chưa xác minh nó là sự thật, chưa bị lôi ra tòa, mà ta ông ổng nói trên mạng xã hội, thì ta đã phạm luật rồi đó. Nguyên tắc này áp dụng trên toàn thế giới, không chỉ Việt Nam ta thôi đâu.

Do đó, nhìn đi cũng phải nhìn lại – nếu như chúng ta quen hành xử văn minh hơn, thì chắc chẳng đến nỗi có ngày người ta phải ra cái Luật rất đáng… phản biện này.

Bây giờ chúng ta bàn đến khía cạnh – nó có đáng sợ như vậy không?

Xin nói rằng, chẳng có gì đáng sợ cả, nếu như chúng ta nói đúng những gì mà pháp luật cho phép: tôi viết một bài phản biện Luật Đặc khu – tại sao không? Sau này 1/1/2019 tôi vẫn sẽ viết, nào, nhà chức trách nào đến mời tôi đi làm việc thử xem, đi chứ sợ cái gì không đi! Tôi viết phản biện trên trách nhiệm công dân của nước Việt Nam, tại sao tôi phải sợ? Các anh các chị có tìm ra được chỗ nào tôi nói xấu Đảng, Nhà nước thì cứ tìm, đó là nghĩa vụ của các anh các chị. Nếu chứng minh là tôi vi phạm pháp luật hãy xử lý, tôi vui lòng vì nó đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, và tôi tôn trọng điều đó.

Luật an ninh mạng chỉ đáng sợ khi chúng ta vượt ranh giới, “nói” hay chính xác là viết những điều không nên viết trên mạng xã hội, như trên đây mình đã viết là vượt qua ranh giới, chuyển sang công kích cá nhân; hay viết những điều chưa được khẳng định.

Xã hội vẫn rất cần thông tin, nhưng khi có Luật đòi hỏi mỗi người đưa tin phải có nghiệp vụ như một nhà báo thực thụ, đưa những gì đã được kiểm chứng, hoặc đưa tin mang tính chân thực không được lồng đánh giá chủ quan của mình vào, mà hãy để người đọc tự đánh giá. Từ góc độ chủ quan, mình cho rằng nếu đã đưa tin dạng thông tấn, không bình luận, đúng thời gian, không gian, đối tượng, không bị cắt xén, bóp méo, xuyên tạc… tức là đúng sự thật, thì không có gì phải sợ cả. Chỉ sợ chúng ta không làm được như vậy. Đồng thời, tình hình mới đòi hỏi mỗi thành viên “Giang cư mận” chúng ta phải có trách nhiệm với những người “bạn” của mình trên mạng xã hội, không để các bình luận đi quá xa, hoặc sa vào bôi nhọ, nói xấu những cá nhân và tổ chức liên quan. Quyền được thông tin của họ đã được đảm bảo, quyền được nói của họ vẫn được đảm bảo nếu như chúng ta giữ được nguyên tắc mà mình đã viết trên đây.

Thực tế, Luật an ninh mạng 2018 vừa được thông qua đó, như truyền thống luật Việt Nam có rất nhiều luật ra được mà chẳng thi hành được. Nói là truyền thống không ngoa, vì nó có nguồn gốc từ… đặc điểm dân tộc. Dân tộc ta có truyền thống rất đáng yêu là “lẳng lặng không tuân thủ pháp luật” – anh ra luật cứ ra, thi hành thì tôi chẳng thi hành và cuối cùng thì luật đó coi như quăng sọt rác. Nếu cái ông “Giang cư mận” chỉ cần viết thành dạng trào phúng thôi, đặt cho mỗi nhân vật trong đó một biệt danh thì chịu chết, coi như luật vô tách dụng. Vô vàn cách lách luật mà chỉ có hòa vào cuộc sống mạng thì mới chứng kiến tận mắt. Từ góc độ đó, thì rõ ràng tính khả thi của Luật này rất thấp và chắc hẳn, thằng “Giang cư mận” sôi lên mấy hôm rồi lại cười khẩy, tìm cách thích ứng. Vụ này thì người Việt ta là bậc thầy.

Thực tế cuối cùng, Luật này ra đời cho thấy sự sợ hãi từ chính quyền trước những làn sóng mạnh mẽ được dẫn truyền bằng mạng xã hội, và có lẽ bây giờ ra Luật cũng là khá muộn. Người ta đã quen dùng mạng xã hội, thì như trên đã viết, người ta cũng dễ tìm cách thích ứng, thì Luật vốn là cái hàng rào thưa, chẳng thể nào kín bưng được, và do đó chẳng xích chân được ai cả.

Status Facebook tại đây

No comments:

Post a Comment