Nghỉ hè, bà ngoại bảo hai thằng
cháu, anh em “con dì con già” với nhau: “Chúng mày phải có việc gì đó mà làm,
chứ cứ chơi nhong nhóng nó hư người.” Hai thằng “nhong nhóng hư người” thực ra,
thằng lớn 10 tuổi là mình, thằng bé 5 tuổi là nó, chưa có mấy khái niệm về việc
phải có một “công ăn việc làm.”
Nhưng kế hoạch thì vẫn được
“lên” và thực hiện… như người lớn. Tiền mừng tuổi được xuất ra, mua lấy hai con
ngan bé xíu, để hai thằng tự chăm sóc, khi nào nó lớn thì tùy cơ ứng biến, hoặc
giết thịt, hoặc… bán, nếu có thể.
Việc cũng chẳng có gì nhiều, mỗi
ngày đi bộ ra chợ, mua 1 hay 2 hào gì đó bèo hoa dâu, loại bèo đúng của chú Phạm
Tuân đem lên vũ trụ ấy mà – năm đó hình như do có công trình nghiên cứu khoa học
này mà phong trào nuôi vịt ngan lên hẳn, bèo nhiều hôm cháy hàng. Bèo mua về đổ
vào cái chậu bằng cao su ở trong chuồng của hai con ngan. Thế là chúng nó sục sục
cái mỏ, thậm chí nhảy cả vào chậu vùng vẫy, lặn ngụp. Thế mà hai con ngan lớn
nhanh đáo để, chỉ nửa tháng mà nó đã to hẳn lên. Mẹ mình bảo, nuôi đến Rằm
tháng Bảy âm là chúng nó đủ to, vừa béo… là có thể giết thịt liên hoan được rồi.
“Mùa vịt” – mẹ bảo thế. Có mùa
nhãn mùa vải, nay lại nghe cả khái niệm “mùa vịt.” Mẹ giải thích, vịt thì lúc
nào chẳng có, nhưng mùa thu vịt nó béo, ăn ngon, chứ mùa khác vịt gầy. Vốn dĩ
con vịt nó không được nhiều thịt như con gà, nên phải vào mùa ăn mới ngon. Con
vịt thì được đĩa tiết canh, đĩa thịt luộc chấm nước mắm tỏi ớt và còn được nồi
xáo măng ăn với bún, nghe thích chưa?
Được nửa tháng, thì ông hàng
xóm mua về một con vịt. Ông này – gọi là hàng xóm nhưng là một thứ hàng xóm rất
đặc biệt. Số là ông ngoại mình là người làm việc cho người Pháp từ thời Kháng
chiến 9 năm [1] nên sau năm 1954 “Hòa bình lập lại,” gia đình có cái nhà to trong
thành phố phải tạo điều kiện cho các gia đình cán bộ kháng chiến từ các vùng
kéo về thủ đô, có chỗ ở. Thế là có đến mấy gia đình, “tràn” vào nhà mình, mỗi
gia đình chiếm một phòng với một số tiền thuê nhà rất tượng trưng, và sau đó
khoảng 10 năm gì đó, họ còn chẳng trả tiền nhà nữa.
Quay lại với con vịt – ông
“hàng xóm” bằng đúng tuổi bố mình kia, mua nó về với một bộ dạng cực kỳ thiểu
não, gầy nhom, cổ ngẳng ra, lông lá xám xịt và lơ thơ. Đứng cạnh hai con ngan đẹp
mã của bọn mình, nó đúng là “vịt con xấu xí” đứng cạnh hai con… thiên nga.
Câu chuyện là, những người “ở
thuê” đó tự coi mình là những người được phục vụ, khi đối xử với gia đình mình
thì họ giống ông chủ bà chủ hơn là người ở thuê, còn khi nhà bị hỏng thì họ tự
coi mình đúng là người ở thuê, trách nhiệm sửa nhà thuộc về người chủ sở hữu.
Bao nhiêu năm gia đình mình chịu sự đè nén đó, cuộc sống cũng không hơn gì địa
ngục.
Con vịt cũng là một công cụ để
thực hiện sự áp bức – ông hàng xóm cứ buổi sáng rình rình anh em mình đổ bèo
cho ngan vào chậu, thì ra thản nhiên… thả con vịt vào chuồng ngan, trước hai cặp
mắt tròn xoe, ngạc nhiên và uất ức của hai thằng bé. Sau đó ông ta vênh váo, dắt
xe đạp, huýt sáo véo von, đi làm.
Con vịt vốn bị bỏ đói, nó cậy
bé và nhanh nhẹn, luồn qua dưới ức của hai con ngan, xông vào ăn. Nó chỉ cần xục
một tí, hết veo chỗ bèo. Thế là hai thằng uất ức lại lóc cóc đi bộ ra chợ, mua
thêm.
Được vài ngày, uất ức lên đến
đỉnh điểm, mình không chịu được, bê con vịt vứt oạch cái ra ngoài. Nhìn nó rơi
xuống nền sân gạch, ngã trẹo về một bên, hai cái chân loai nhoai đạp xuống đất
mấy cái mới đứng được lên rồi lạch bạch đúng như một con vịt, nó nặng nề chạy về
nhà. Nhìn nó ngã rồi chạy đi, mình thấy thương nó thế. Từ hôm đó, hai anh em
mua bèo về chưa cho ngan ăn vội, mà chờ ông “hàng xóm” thả vịt xong, đi làm đã
mình mới ra, bê con vịt nhẹ nhàng bỏ ra ngoài, rồi cho ngan ăn. Ông ta không thể
chờ hai thằng rỗi rãi được, vì còn phải đi làm – đương nhiên nếu đã bê vịt ra
thì chẳng có ai mà bê nó trở lại được cả.
Con vịt bị đói – và người nhà
ông ta phải cho nó ăn. Ít ra mấy bà con gái của ông ta cũng nhiều tự trọng hơn
ông bố một chút. Con vịt này thì chẳng cần bèo, cơm thừa canh cặn đổ ra nó xực
tất…
*********
Câu chuyện được kể cho con
trai nghe, nhân dịp hắn ta chuẩn bị vào hè. Bây giờ thì chẳng có chỗ mà nuôi
ngan nuôi vịt, và nếu có chỗ thì cũng không nên nuôi vì cuộc sống đã khác. Nuôi
phải chấp nhận điều kiện vệ sinh sẽ bị ảnh hưởng, nó không còn được như nếp
sông gia đình bây giờ nữa.
Mình cũng không giấu con trai
chuyện con vịt của ông hàng xóm.
“Tại sao lại phải cho nhà người
ta vào nhà mình ở như vậy hả ba?”
“Vì người Pháp sang Việt Nam
chiếm nước ta làm thuộc địa, bóc lột nước ta. Vì cái nhìn cho rằng người làm việc
cho người Pháp, cũng là bóc lột, và khi người Pháp thua trận, cần phải lập lại
công bằng. Gia đình ông ngoại của ba rất sẵn lòng chia sẻ, cho ở nhờ nhiều lắm,
nhưng có những người biết điều và cũng có những người như ông hàng xóm đó vậy.”
“Thế ba không ném con vịt nữa
à? Xong mình có cho nó ăn không?”
“Ừ, ba thương, sợ nó đau, nên
không ném nó nữa. Nhưng mới 10 tuổi, ba muốn tin vào sự công bằng. Ba và chú Tuấn
nuôi ngan bằng tiền công quét dọn sân vườn của mình, còn ông ấy thì chẳng mất
gì mà người khác vẫn phải nuôi vịt cho mình.”
(Thở dài) “Không tự trọng ba
nhỉ…”
“Ừ, đúng vậy, rất thiếu tự trọng.
Ông ấy quen suy nghĩ là làm cái gì, làm thế nào thì nhà mình bên này vẫn phải
chịu. Tiếc là hồi đó người lớn trong nhà cũng không ai hướng dẫn được cho ba phải
hành xử như thế nào.”
“Con mà như ba hồi đó, con vẫn
cho nó ăn, và con sẽ sang gặp ông ấy. Con sẽ nói thế này: “Cháu đã mua bèo cho
cả con vịt của bác ăn, và nay bác phải trả cháu tiền mua chỗ bèo đó. Từ ngày
mai nếu bác muốn, thì bác đưa tiền cho cháu để cháu đi mua bèo giúp bác và cháu
sẽ cho vịt của bác ăn luôn!””
Mình tròn mắt – “Con dám làm
thế thật ấy à?”
“Vâng, có sao đâu, con sẽ sang
nói như thế. Còn nếu ông ấy vẫn không nghe thì con sẽ làm như ba, bê con vịt ra
ngoài.”
Đúng vậy – ai đã làm việc gì
thì phải tự chịu trách nhiệm về việc đó, chứ không phải biến nó thành chuyện
làm vất vả thêm người khác.
Con trai của tôi đã lớn thật rồi.
Có một chuyện mình chưa kể cho
con trai, hồi đó ông ngoại mình rất khổ. Nhà có cái đài quay đĩa, có thể bắt được
nhiều đài nước ngoài. Ông hàng xóm buổi tối toàn bò bò, nấp dưới cửa sổ nghe
xem ông ngoại mình có “nghe đài địch” (“Bê-bê-xê”, “Vê-ô-a…”) không rồi ra đồn
công an báo cáo. Thế là anh cảnh sát khu vực lại vào, hoạnh họe ông ngoại mình
đến cả ngày trời.
[1] Kháng chiến chống Pháp từ
1945 đến 1954.
Tham gia thảo luận trên
Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment