Những ngày cuối năm 2021, tình cờ tôi “được” vào tá túc ở khoa cấp cứu một Bệnh viện lớn cấp trung ương ở Hà Nội đến cả chục ngày. Những ngày nằm viện, có lẽ là “bát tử nhất sinh còn nhị phần dành cho số phận” tôi cũng được nghe rất nhiều chuyện. Từ câu chuyện những ca thanh niên trẻ măng vừa được tiêm vaccine Covid và sốc phản vệ phải vào cấp cứu, mà phần lớn không cứu được… Đặc biệt là những câu chuyện của các bác sĩ và điều dưỡng vừa hết cách ly – những người vừa trở về Hà Nội từ “chiến trường” thành phố Sài Gòn, những câu chuyện còn nóng hổi như khói thuốc súng còn chưa tan hết sau trận đánh. Họ kể về mấy dòng chữ đính trên chiếc máy pha cà phê “Quà tặng của gia đình ông…” mà mới chỉ pha uống được hai tuần, chính gia đình người tặng được đưa vào bệnh viện và ra đi gần hết. Mỗi lần pha cà phê uống để chuẩn bị vào ca, họ lại đọc được dòng chữ đó, dòng chữ cứ ám ảnh họ trong suốt thời gian ở trong đó và cả bây giờ vẫn chưa phai. Những câu chuyện về những gia đình Sài Gòn, 8 người chết 5, 5 người chết 3…
Lúc này đây chúng ta có thể hình dung ra sự tổn thất về xã hội của cuộc “chiến tranh” này để lại cho toàn thế giới là quá lớn với sự mất mát về nhân mạng như vậy. Chính những ngày nằm trên giường bệnh, tôi suy nghĩ rất nhiều về kiếp nhân sinh và đó cũng chính là những ngày mà ngoài trời, mưa lướt thướt những cơn mưa cuối thu. Hàng trăm người nhà bệnh nhân từ các tỉnh lẻ lên Thủ đô chăm người nhà, đêm đêm ngủ ngoài trời, không chỉ phải chống đỡ với mưa lạnh mà còn cả với bàn tay rờ rẫm tìm những đồng tiền gom góp, vay mượn, những chiếc điện thoại dù được giấu rất sâu, vẫn bị tìm ra mà lấy mất.
Nhìn những giọt mưa rơi xuống từng chiếc lá ngoài trời, mưa to thì chảy đi nhanh, rồi mưa ngớt dần, chúng được dừng lại lâu hơn rồi cũng dứt duyên với mặt lá xanh mà trở về với đất, tôi cứ nghĩ đến cuộc đời con người… Có lẽ chẳng chỉ có người phụ nữ “thân gái như giọt mưa sa” mà bất cứ ai trong chúng ta, chẳng biết có ngày số phận sẽ đưa đẩy mình đến đâu. Hình như mình đã gặp những suy nghĩ đó ở đâu rồi, tôi cứ ngờ ngợ vậy rồi một lúc nào đó chợt nhớ ra, mình gặp Phạm Duy… Người Nhạc sĩ đau đáu với hình ảnh người mẹ già ôm xác con lạnh giá, người con có thể là một chiến binh dù ở bên nào của cuộc chiến, hoặc chỉ là một người nông dân vừa bị giết lúc chiều bởi một viên đạn pháo lạc… Nhưng Nhạc sĩ không dừng lại ở niềm đau của dân tộc trong cuộc chiến nồi da xáo thịt, mà còn làm tâm hồn chúng ta dịu lại với tiếng khóc “oa oa” của đứa trẻ mới ra đời, đem lại tiếng cười cho những người đang mong chờ sự ra đời của nó. Cuộc sống là như vậy, cái chết đem người này đi thì lại mang một sinh linh khác đến với đời. Và ở đâu đó trong ca khúc, hình ảnh Đức Phật đến như dòng nước mát xoa dịu nỗi đau của dân tộc, và hình ảnh Đức Chúa xin được đóng đinh hi sinh vì loài người.
Thật tình cờ, năm nay cũng là tròn 10 năm ca khúc “Giọt mưa trên lá” của Nhạc sĩ Phạm Duy được cấp phép biểu diễn trên toàn quốc, cùng với 7 ca khúc khác của Ông. Bài hát này được ông viết năm 1965, chỉ một năm sau sự kiện mà chúng ta vẫn được dạy theo chương trình lịch sử phổ thông xã hội chủ nghĩa, là “giặc Mỹ vào miền Nam” như dự cảm cho những giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến sắp đến sẽ kéo theo những nỗi đau. Cứ ngẫm đến Ông, với hai lần “ra đi” thật đặc biệt, một lần chia tay miền Bắc vào Nam, và 10 năm sau “Giọt mưa trên lá” là lần ra đi thứ hai, lần ly hương thực sự xa xôi.
Tôi nhớ vào đầu thập niên 1990, có một bài báo của ai đó so sánh hai bài hát “Lời người ra đi” và “Người về” – tác giả cố nêu bật sự khác biệt giữa một người viết về “ra đi” nhưng ở lại kháng chiến và lên đến Bộ trưởng, còn một người thì “Người về” nhưng cuối cùng thì ra đi, bỏ lại dân tộc… Chúng ta sẽ không phán xét bất cứ điều gì, bất cứ ai ở đây, nhưng mỗi người có một số phận và đứng trước hoàn cảnh đưa đẩy, không phải ai cũng có lựa chọn giống ai. Sự phán xét đúng sai, không bao giờ cũng giống nhau ở tất cả mọi người và thế hệ con cháu chúng ta, sẽ còn tranh cãi mãi về những điều đó…
… nhưng “Người về” của Phạm Duy cũng như “Giọt mưa trên lá” êm dịu cả về nét nhạc và ca từ, như một bài hát ru tâm hồn giông bão của chúng ta về hình ảnh Mẹ thân yêu, nhưng không quên nhắc chúng ta về nỗi đau qua vòng hương trắng xóa gửi tới người chiến sĩ chết trong xa mờ. Có lẽ Ông có lý riêng của mình khi không chọn cho mình con đường phải hòa vào cuộc chiến, mà chọn con đường xoa dịu nỗi đau của thế nhân bằng hình ảnh “Me ơi, me ơi, chuông chùa nào la đà…” Ông viết “Người về” đúng năm ra đi – 1954 và mấy chục năm sau ông mới thực sự được về với Hà Nội, nhưng người ta vẫn còn tính ra với tiến độ của “Hà Nội không vội được đâu” thì đến năm Ông 140 tuổi số ca khúc của Ông (cỡ 1000 bài) mới được cấp phép biểu diễn hết.
Còn với chúng ta, những người đang phải sống với mối lo dịch bệnh và cả những vấn đề môi trường và xã hội, thì vẫn như đang sống với cuộc chiến và dường như người Việt đã quen với thời chiến rồi, mọi thứ vẫn đang hết sức… bình thường. “Em vẫn phóng xe ra phố, anh vẫn tìm bạn vui cũ…” những người đang sống nhanh chóng quên đi những đau thương mất mát vừa mới đó thôi, để cuộc sống được tiếp tục, cũng là điều tốt.
Chỉ với những người đã trải qua những sự kiện sinh tử mới thực sự muốn đánh một dấu lặng cho suốt dòng nhạc cuộc đời của mình, để nhìn thấy mình có lúc mong manh như một “giọt mưa trên lá…” Và có lẽ hình như chỉ vài đoạn ca khúc, như mấy khổ thơ ngắn, hình bóng dân tộc đã được Nhạc sĩ gói gọn trong đó với một niềm đau nhân thế không phải ai cũng tìm ra lối thoát… “thế giới lạc loài, chưa thoát ra phận người…”
Bài trên Fanpage tại đây
Bài trên Facebook tại đây
Bài trên Nhịp cầu Thế giới tại đây
No comments:
Post a Comment