Cáng người ngày xưa |
Người ta hay chửi nhau: “Mày
là thằng đểu cáng”, “Cái thằng đó đểu cáng lắm!”. Ấy thế mà “đểu cáng” nghĩa là
gì, nguồn gốc của nó ra sao, thì không mấy ai để tâm.
Vừa cách đây khoảng chục ngày,
ông nội bọn trẻ con nhà mình hỏi: “Anh có nhớ ngày xưa tôi giải thích cho anh từ
“đểu cáng” nghĩa là gì và ở đâu ra không?” – “Dạ hồi con học trung học ông nói
một lần rồi, con quên, không nhớ nữa”.
“Ngày xưa mỗi khi đi đâu, chưa
có xe cộ sẵn như bây giờ, là phải thuê người cáng đi – nhất là người có tuổi,
người ốm. Đồ đạc mang theo lại phải thuê người gánh. Người cáng thuê, người ta
gọi là cáng. Người gánh thuê, người ta gọi là đểu. Mỗi lần gọi người đưa đi như
thế, thường ra đầu đường nơi tập trung những người làm nghề đó, gọi “Cho một đểu
hai cáng nhé!” và thế là có ba người te tái chạy vào, hai người vác theo một
cái cáng, một người mang theo đòn gánh quang gánh. Hầu như là những người lao động
chân tay, ít được học hành, nên cái sự ăn chia nó thường không đều, hoặc hay
không vừa ý với nhau, cãi nhau, đánh nhau, chửi nhau khi chia tiền xảy ra như
cơm bữa. Và thế là có câu “Đối xử với nhau như cái bọn đểu cáng!”. Đấy, nguồn gốc
đấy”.
Hà hà, hay thật đấy. Hôm qua
nhân tiện giở từ điển, thì thấy từ đểu trong Từ điển tiếng Việt (NXB KHXH Hà Nội
1977) định nghĩa “đểu” là (1) Người đi gánh thuê (cũ) và (2) (tính từ) Hèn mạt,
xỏ xiên, mất dạy (ví dụ “đồ đểu”, “nói đểu”). Ngoài ra cũng có từ “đểu cáng”
nghĩa là “đểu nói chung” (thông tục) – ý là dùng cái nghĩa (2) trên đây. (Trang
285).
“Đểu cáng” cuối cùng chỉ đơn
giản thế thôi.
Cũng là một sự phát triển của
ngôn ngữ. Có thể nói đây là sự hình thành từ rất thực tế và không kém phần tinh
tế của dân tộc. Chẳng hạn từ “cửu vạn” dùng để chỉ người bốc vác, theo tôi nhớ
thì bắt đầu được dùng nhiều trong khoảng những năm 1990, khi buôn bán thương mại
biên giới Việt Nam – Trung Quốc quay lại nhộn nhịp, kèm theo là các nghề bốc
vác, vận chuyển… phát triển và các tệ nạn cờ bạc, hút xách cũng phát triển
theo. Ai cầm cỗ bài tổ tôm rồi cũng rất thú vị với cái thằng người vác cái hòm
trên quân bài “Cửu vạn” đó.
Cũng có sự hình thành từ do sự
hiểu sai. “Nhà báo gạo cội” Trần Đ. của VTV là một ví dụ điển hình. Khi ông ta
còn hay đọc nọ đọc kia, bằng chất giọng hấp dẫn và truyền cảm, khán giả là cứ
mê đi với chương trình của ông ta. Chính ông ta là người dùng từ “dung dị” với
nghĩa là “giản dị” và rất có công làm cho nó phổ biến. Những người học Hán thì
thường không dùng như vậy, vì họ hiểu đó là sự hiểu sai. “Róngyì” (dung dị)
trong tiếng Hán là sự dễ dãi, dễ dàng… không bao giờ có nghĩa là giản dị.
Biết nguồn gốc của “đểu cáng”
rồi, hóa ra nó cũng… không “đểu” lắm. Không quá xấu. Trên thực tế nhiều khi
chúng ta dùng từ “đểu” với nghĩa đùa vui. Một đứa bé trông hay, hóm hỉnh… cũng
có thể được khen “Trông đểu nhỉ!”. Nhưng khen không thật người ta gọi là “khen
đểu”. Còn thanh niên ngồi hàng nước đầu phố, nhai kẹo vừng hút thuốc lá, nước
chè xúc miệng òng ọc nhổ toẹt, nhìn người đi qua phố mình bằng cái nhìn xấc xược…
cứ thấy ai không vừa mắt, lại dám “nhìn đểu ông” là thể nào cũng có chuyện,
đánh nhau án mạng như chơi.
Ngày bé, gần nhà có anh Nhắt
thường gánh nước thuê. Hồi đó không có máy bơm, mà có thì cũng lấy đâu ra điện
mà bơm. Gọi là anh vì anh người bé, trông rất trẻ, thực ra con anh ấy gần bằng
tuổi mình. Anh Nhắt rất hiền, chẳng thấy to tiếng với ai bao giờ, và bao giờ
cũng gánh “khuyến mại” thêm vài gánh nước ngoài số tiền đã nhận. Bà ngoại thường
thuê anh gánh nước từ máy nước đầu phố về đổ vào cái bể to ở trong sân để làm
nước ăn, còn nước rửa ráy thì múc ở giếng đào cạnh bể nước. Ấy thế mà nhà hàng
xóm cứ đến đêm, là sang múc trộm để giặt giũ tắm táp, họ hay vục những cái xô
chậu rất bẩn vào múc cho nhanh – mà toàn là cán bộ Nhà nước tập kết từ quê về
Hà Nội cả. Đến khi về hưu, cái ông chủ gia đình chuyên múc nước trộm ấy, còn lên đến vụ trưởng, Đảng viên!
RẤT NÊN QUAN TÂM TỚI ...HIỆN TƯỢNG LƯU MANH,TÂM LÝ LƯU MANH CÁCH SỐNG LƯU MANH
ReplyDeleteVương Trí Nhàn
Trong bài "Đường đi và người đi -- Những khám phá thú vị về xã hội người Việt xưa" in trên TT&VH số ra 18-12-2011 nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng có viết :“ Ngày xưa đi buôn, thường phải thuê người gánh hàng, một người gánh hai thúng gọi là Đểu, hai người gánh chung một thúng hoặc một kiện hàng gọi là Cáng. Dân gánh thuê Đểu Cáng thi thoảng có trộm hàng của chủ buôn, nên chữ Đểu Cáng dần mang nghĩa xấu, cũng như chữ Lưu manh – người mù đi lang thang, đôi khi cũng trộm cắp, nên chữ này cũng mang nghĩa xấu”.
Tôi muốn bàn thêm với anh Thượng riêng về hai chữ lưu manh.Chữ manh ở đây không phải người mù.Trong chữ Hán cũng có một chữ manh viết bằng cách kết hợp chữ vong với bộ mục, Đào Duy Anh dịch nghĩa là mắt không có con ngươi, tối tăm.
Nhưng trong từ ghép lưu manh thì sách vở xưa nay đều viết chữ manh khác, gồm chữ vong như trên và bộ thị thay cho bộ mục. Chữ manh nói về sau này thời cổ là chỉ chung là dân. Trong Bình Ngô đại cáo có câu:"Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập"Đào Duy Anh dịch là"Dựng gậy làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp"Là dùng chữ manh ấy.Từ chỗ ban đầu chỉ dân nói chung ( Hiện đại Hán ngữ từ điển giảng “ cổ đại xưng bách tính”), sau chữ manh này chỉ dân không có nghề nghiệp. Nó cũng không mấy khi được dùng riêng mà thường dùng như một thành phần trong từ ghép lưu manh.
Anh Phan Cẩm Thượng cho rằng đểu cáng thi thoảng có trộm hàng của chủ hàng nên có nghĩa xấu. Nghĩa xấu đó là gì? Từ điển Khai trí tiến đức 1931 ghi đểu cáng là hạng người hèn mạt vô hạnh. Như vậy là từ một thói xấu đã biến thành một bản chất. Nay đểu cáng thường dùng như một tính từ chỉ phẩm chất.Hạng lưu manh cũng vậy. Các từ điển Hán -- Hán hiện đại thường ghi lưu manh ban đầu chỉ dân lang thang vô nghề nghiệp, sau chỉ kẻ “bất vụ chính nghĩa, vị phi tác đãi’, tức là kẻ không biết chính nghiã là gì, dám làm mọi việc phi pháp xấu xa.Tra các từ điển Hán Anh, tôi thấy người ta thường dịch lưu manh thành rogue, gangster, hooligan, sau đó chuyển sang nghĩa rộng hơn, nó dùng để chỉ những quan niệm hành động phi đạo đức, liều lĩnh, bậy bạ, rộng hơn là những triết lý “vô thiên vô pháp”, cho phép người ta dùng mọi thủ đoạn cốt đạt được mục đích.
Dẫu sao tôi cũng cảm ơn nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng. Từ chỗ nghiên cứu nghệ thuật thuần túy, anh chuyển sang nghiên cứu cơ sở của nghệ thuật là xã hội.Khi nghiên cứu về giao thông VN trong xã hội cũ, anh không chỉ nói tới đường đi mà còn nói tới người đi, vì thế mới có câu chuyện chúng ta trao đổi ở đây.Tôi lại rất tán thành cái hướng mà anh theo là phân chia xã hội không theo thang bậc giai cấp chung chung nông dân—địa chủ phong kiến mà theo các tầng lớp hình thành trong xã hội như kẻ sĩ, nhà buôn, kẻ hạ lưu trộm cướp lưu manh.Xin phép nói thực, tôi cũng đang muốn làm như vậy.
ReplyDeletePhần góp chuyện của tôi:Ngày nay chúng ta thường hay lý tưởng hóa chữ dân. Nhưng ở trang 87 của "Từ điển từ nguyên tiếng Trung" ( Nxb Hồng Đức H. 2008 ), tác giả Nguyễn Mạnh Linh ghi:"Để áp bức nô lệ làm việc và tránh tạo phản, bọn chủ nô thường bắt họ đeo gông tay gông chân hoặc dùng mũi khoan chọc mù mắt họ. Chữ dân trong Giáp cốt văn và Kim văn nghĩa gốc là chỉ nô lệ, nghĩa rộng chỉ kẻ bị thống trị trong đó bao gồm nô lệ và dân thường. Sau này phiếm chỉ bách tính quần chúng nhân dân."
Phải đi vào từ nguyên học lôi thôi như vậy vì nói tới người dân xưa là nói tới tình trạng lang thang vô nghệ nghiệp.Mà đó cũng là nguồn gốc tạo nên cách sống của họ. Họ chẳng coi cái gì là quan trọng.Họ dám làm những việc động trời bất chấp pháp luật. Nhờ thế, trong lịch sử các nước như Trung Quốc Việt Nam họ là nguồn gốc của những hỗn lọan mà ngày nay ta hay gộp vào và gọi chung là những cuộc nông dân khởi nghĩa.
Lưu manh du đãng… ở ta đóng vai trò lớn trong các cuộc chiến tranh kể cả nội chiến lẫn chống ngoại xâm. Nhiều bộ sách cũ tôi đọc được có ghi những người theo Đinh Bộ Lĩnh cờ lau tập trận là du đãng, mà sau này Quang Trung mạnh cũng là nhờ tập hợp và phát huy sức mạnh đám người này.
Trong lịch sử Trung quốc, những Lưu Bang Hán Cao Tổ, Chu Nguyên Chương Minh Thái Tổ cũng mang đậm trong mình chất vô lại, du đãng, lưu manh. Đã có câu tổng kết trí thức chỉ làm đến tể tướng chỉ có lưu manh mới có thể làm vua.
Nhận xét ấy trong thời hiện đại được chứng nghiệm qua bộ đôi Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai.(Tuy Mao Trạch Đông cũng là một trí tuệ siêu đẳng, song yếu tố chủ đạo trong ông vẫn là lưu manh).
Lịch sử cả Đông lẫn Tây vận động theo hướng xã hội khép kín trong các làng xóm thôn lạc thời cổ điển bị phá vỡ, con người tràn ra thành thị. Trong khi các tầng lớp nhà buôn và quan lại dùng tri thức tổ chức lại đời sống thì tầng lớp lưu manh cũng xuất hiện, và phát triển mạnh theo hướng thâm nhập vào các tầng lớp khác.
Trong xã hội Việt Nam sau 1945, do mải lo chiến tranh, nên chúng ta dung túng cho mọi cách sống khác nhau. Trong khi không chú ý tới những tiêu chuẩn đạo đức nhân bản, xã hội để mặc cho xu thế lưu manh phát triển, nó mặc sức chi phối sự hình thành nhân cách từ người lao động đến người có học, làm họ cũng trở nên lười biếng tầm thường tàn ác vô cảm, nhất là khinh thường mọi sự thiêng liêng, cho phép mình sống như quỷ dữ.Tức là lưu manh hóa họ. Mặc dù nhiều khi mượn áo trí thức để làm dáng nhưng trong thực tế bản chất của lưu manh là thâm thù căm ghét trí thức chân chính. Và họ căm thù trí tuệ nói chung. Ở tầng lớp lưu manh khóac áo trí thức, cái lõi là vô học, bao nhiêu cái có học bên ngoài chỉ là đắp điếm thêm.