Ảnh chụp trong Chợ Giời năm 2012 |
Một. Dân Chợ Giời.
Cái gì cũng thế, buổi đầu bao giờ cũng lỉnh kỉnh,
và phải mất một thời gian thì mới đi vào ổn định được, Chợ Giời cũng không phải là ngoại lệ.
Chợ Giời Hà Nội được hình thành từ cuối thời
Pháp thuộc, chỗ “Trại Hòa Bình” (đọc “Chuyện cũ Hà Nội” của Tô Hoài ông có nhắc
đến cái “Trại” này một lần). Nghe người lớn kể, đến những năm 1960, chợ Giời vẫn
hoạt động, vẫn đúng nghĩa như cái chợ bán đồ cũ, như bây giờ có rất nhiều chợ
cóc bán đồ cũ xuất hiện ở Hà Nội vậy. Phía bên số lẻ của phố Trần Cao Vân bây
giờ, là các nhà cũ được xây trong thời kỳ Pháp tạm chiếm. Bên số chẵn của phố,
là vỉa hè trống và tường của khu nghĩa địa Tây, nay là khu tập thể Nguyễn Công
Trứ - được xây từ chính những năm 1960 đó. Dần dần, bên vỉa hè đó người ta dựng
lên những dãy quán lụp xụp, vừa để ở, vừa để bán hàng, và đến những năm 1970
thì xây luôn thành nhà ở kiên cố, vẫn không có giấy tờ gì hết, bây giờ gọi là “nhà
nhảy dù”. Thời nào cũng có “xóm liều” cả, xóm thì bị giải tỏa, xóm thì mặc
nhiên tồn tại với thời gian rồi được hợp thức hóa…
Những năm 1970 cũng là những năm Chợ Giời bị dẹp,
không hoạt động, chắc cũng phải đến mười mấy năm. Dân cư khu phố chia hai bên
rõ rệt, một bên là các gia đình cũ, bên kia là các gia đình “bình dân” hơn, dân
mới nhập cư từ những năm 1970 trở về sau. Dần dần, sự biến động của dân cư nó
làm cho tình hình thay đổi: các gia đình nhập cư theo bước chân “Giải phóng Thủ
đô” đến khu phố, và các gia đình cũ thì dần dần chuyển đi đâu đó… Phố xá đã
thay đổi.
Những năm 1980 Chợ Giời lại bung ra hoạt động,
và ngày càng lớn mạnh. Sự thay đổi đã đến nhanh chóng, những “gia đình cũ”
không trụ lại được đã chuyển hết, và nếu có ở lại mà không buôn bán được, thì
sa sút nhiều về điều kiện kinh tế. Còn những gia đình buôn bán đã quen, thì
chuyển từ bán lạc rang hay đánh giày sang bán các hàng hóa khác, đã là chuyện
bình thường.
Thời đầu tiên mới bung ra, Chợ Giời toàn bán đồ
cũ. Nhức nhối nhất là nạn buôn bán xe đạp “giả”. Xe Thống Nhất “giả” là nhiều
nhất – bản thân cái xe thật nó cũng chẳng hề đẹp đẽ gì, sơn thì sần sùi, chữ “Thống
Nhất” bằng sơn trắng phun nhòe nhoẹt qua cái lỗ đục thủng trên tấm bìa… nên các
nơi người ta làm giả nhiều lắm. Phụ tùng gia công cũng nhiều, hồi đó các cơ sở
sản xuất của Hà Nội khá nhiều và năng lực là ổn so với mặt bằng xã hội, nên phụ
tùng “gia công” cũng nhiều.
Mấy bác nông dân ở dưới quê lên, chắt bóp được
cục tiền gói trong cái khăn mùi xoa, mua được cái xe đạp óng ánh nước sơn, về
nhà mà dám chở bao thóc đi qua đường tàu, khả năng gãy khung là rất cao…
Bây giờ công nghiệp cơ khí tư nhân của Hà Nội vẫn
sản xuất ra được những cái xe đạp như thế, thậm chí còn không được như thế, mà
hầu hết các cơ sở sản xuất đã chết gần hết.
Hồi đó cứ mỗi ngày Chủ Nhật là một ngày đông
đúc kinh khủng. Rỗi rãi mà ra ngồi ở cửa nhà thôi, thấy đủ các thành phần kéo đến.
Đông nhất là đội thương binh buôn xe đạp rởm. Thỉnh hoảng họ đánh nhau, náo loạn
của khu phố, bà con chạy toán loạn… đó là những người thương binh của cuộc chiến
tranh vừa chấm dứt được một chục năm – khi mà cả xã hội khó khăn đến cùng cực,
việc gì cũng phải làm miễn là có đồng tiền để nuôi thân và nuôi gia đình. Ngoài
thương binh thật, cũng có thương binh giả, cựu chiến binh giả, ăn mặc như thật.
Chỉ mãi một thời gian vài tháng đổ ra, quen mặt quen tên, mới biết ông nào là
hàng giả, ông nào là hàng thật.
Có một ông chuyên mặc bộ đại cán “dạ tá”, đeo
kính râm màu nâu, xách xà cột bộ đội, chân gỗ chân thật đi tập tễnh… nhưng lại
là tay trốn lính, chưa bao giờ đi chiến đấu ngày nào cả mà mới bị tai nạn ở quê
sau ngày Thống Nhất, nhưng trông thì giống hệt hàng thật, người ta vẫn gọi là “thiếu
tá” một cách rất mỉa mai. Có ông khác thì tóc bạc da mồi, đeo kính trắng, người
ngợm tay chân cực sạch sẽ, đi dép nhựa trắng Tiền Phong, bút máy nắp vàng trên
túi áo, xách túi vải bạt chỉnh chu… nhưng khi viết giấy bán xe đạp thì chữ xấu
như ma đầy lỗi chính tả… người ta gọi ông này là “vụ trưởng”. Hai ông “thiếu tá”
và “vụ trưởng” này làm mưa làm gió, bán được vô khối xe đạp rởm nhờ cái vỏ bọc
hoàn hảo.
Đầu chợ chỗ Phố Huế, là khu vực của đội bán quần
áo cũ, quần áo xách tay, đồ Jeans Thái Lan… cũng có những phức tạp riêng. Nay
khu vực này đã được chuyển ra… ga Hàng Cỏ.
Cùng kéo về làm ăn ở chợ Giời là đội ăn cắp,
móc túi. Mãi về sau này còn có bọn cờ bạc bịp nhưng thường chỉ làm ăn được một
thời gian, rồi chúng cũng đi đâu không rõ. Dần dần, bọn ăn cắp ở chỗ khác đến,
biến mất như kết quả của một sự sàng lọc tự nhiên. Bọn bên đê Vạn Hoàng sang,
ngoài Trần Khát Chân đã đuổi chúng đi chỗ khác, chỉ còn lại bọn “bản xứ”. Bọn
này mình nhẵn mặt, toàn dân cùng khu cả, nhiều đứa học cùng, nhiều đứa học dưới
lớp… hàng ngày nhìn thấy nhau, rồi ai sống cuộc sống của người ấy, thế thôi.
Bà con buôn bán cố định thì dễ quen mặt, họ bán
ở các sạp và hầu hết là hiền lành. Toàn đồ cũ, thuận mua vừa bán… nhưng tất
nhiên, buôn bán là phức tạp, bao giờ chẳng có người nọ người kia.
Những năm 1990 là những năm hoàng kim của Chợ
Giời, đất nước mới đổi mới. Khu chợ trở thành trung tâm buôn bán hàng hóa của cả
Miền Bắc, với các loại nguồn hàng: thanh lý từ các kho của Nhà nước, hàng của
dân lao động xuất khẩu từ Đông Âu gửi về… đây là thời của lũ thanh niên như
mình, đã mua được hàng, là thắng, thời “đánh hàng địa chỉ”. Rồi sau đó đến thời
của đồ “nội địa”, hàng “bãi”, hàng “cáy” do các tàu viễn dương khuân về Hải
Phòng rồi Cửa Lò… cứ là hàng đống “đồ bãi rác”. Hình thành mối quan hệ khăng
khít giữa Chợ Giời Hà Nội và Chợ Sắt Hải Phòng. Đồ thì được gửi lên Hà Nội, đồ
thì lại được gửi xuống… Bây giờ thì Chợ Giời đã đi xuống một cách khá rõ ràng,
nhưng các nhà một thời buôn bán, có của có nả… đều cho con đi học, nhiều đứa đi
học nước ngoài “bằng tiền”, bây giờ phần nhiều cũng tàm tạm cả. Những đứa học
hành không được, nghiện nghập cũng có… thì đã biến mất đi đâu đó, không thấy mặt
nữa.
Quay lại với ông “thiếu tá” để kết thúc chuyện
Chợ Giời. Có một bác khách cao to, tóc bạc, ăn mặc xơvin (mình viết “xơvin” với
nghĩa là “dân sự” chứ không với nghĩa “bỏ áo trong quần” như sau này nhiều người
hiểu nhầm), mua được cái xe đạp Thống Nhất. Đi ra đến đầu chợ, phát hiện ra thế
nào đó, quay lại nói chuyện phải quấy với “thiếu tá”. Chắc trước đó có trao qua
đổi lại kiểu “Bác cũng là cựu chiến binh à, tôi trước đơn vị nọ đơn vị kia đây…
Vầng, anh em đồng ngũ với nhau làm ăn uy tín bác yên tâm mua xe…”. “Thiếu tá”
chối bay, cho rằng bác cựu chiến binh ra đầu chợ tráo xe khác, mặc dù số khung
vẫn trúng phoóc… Bác cựu chiến binh nổi cáu, đứng dậy quát “Ông dám lừa tôi hả?
Bây giờ ông muốn gì? Trai thành Nam đây!” và bẻ ngoéo cái chân gỗ của “thiếu tá”.
Bà con ngồi lặng thinh, không ai can thiệp, vì ai dại gì can thiệp vào chuyện lừa
lọc bao năm ngay của “chàng”. Cuối cùng thì “thiếu tá” trả lại tiền cho “trai
thành Nam”, lấy lại cái xe khung đã rời ra và lắp lại chân gỗ, trèo lên, đạp biến
thẳng…
Chợ Rồng Nam Định |
Hai. Trai thành Nam.
Đi học đại học, gặp nhiều bạn các tỉnh về. Mình
thì cứ hợp là chơi, không quan tâm đến bạn có nguồn gốc xuất xứ ở đâu…
Có một cậu, à mà chính cái cậu trong bài “Cái cốc”,
dân ngoại thành Thành Nam, lại rất thích soi “giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa”.
Cậu hỏi thế anh quê ở đâu, mình khai lằng nhà lằng nhằng, nào gốc thì ở Hà Nội,
cụ cố nội bị Pháp truy nã sao đó, dạt về quê gần nhà chú ấy, nên bây giờ vẫn
khai ở đó… cậu nghe một lúc, rồi hả hê kết luận “tưởng anh Hà Nội gốc, hóa ra
cũng không gốc”. “Ừ thì tao có gốc gác gì đâu, nguồn gốc bình dân, con nhà
nghèo ở thành phố… mà suy cho cùng thì dân Việt Nam ta ai chẳng có nguồn gốc từ…
nền văn minh lúa nước!”.
Với mình thì “thành Nam”, “thành Vinh”, “Phòng”,
“tỉnh Đông”, “xứ Đoài”… chơi được hết.
Nhưng phải công nhận, anh em các tỉnh, thì “Trai
thành Nam” và “Trai Hải Phòng” là nghênh ngang nhất – các bác Thành Nam và người
dưới Phòng đừng vội nóng mặt nhé, thật cả đấy ạ! Hội Thanh Hóa hay “trai thành
Vinh” như thế nào mình không nhớ, chứ hội Nam Định và Hải Phòng cũng khá “gấu”,
cũng hay đánh nhau. Mình không hiền, nhưng ngoài giờ học thì bận đi làm, đến học
thì ít giao du, khép kín và hơi thu mình, nên ít được chú ý, nhưng thấy kể “chuyện
nội trú” thì các “hội tỉnh” này đều khá nhiều chuyện. Tất nhiên, nhiều chuyện
nhất vẫn là “trai dưới Phòng” và “trai thành Nam”.
Cái cậu G. bây giờ làm Sở tư pháp Hải Phòng,
lên Hà Nội học mang theo cả một niềm tự hào thành phố hoa phượng đỏ. Cái gì là
đồ nội địa cũng tốt, chứ không như cái đồ mới trên Hà Nội. Một niềm tin vững chắc,
mãnh liệt… và không chỉ một mình G. mà nhiều người Hải Phòng mình tiếp xúc đều
như vậy cả. Nhưng G. lại là một bạn rất tốt, nhiệt tình và hồn hậu… lúc mới
chơi thì chưa nhận ra, càng về sau, càng rõ. Dần dần, những suy nghĩ “nội địa”
của cậu ta giảm dần rồi chẳng ai để ý đến nữa. Cả cái anh bạn “thành Nam” kia
cũng vậy, dần dần chơi thân và chẳng để ý đến gốc gác gì nữa.
Bây giờ mọi thứ đều phát triển, nhất là về truyền
thông… dần dẫn có vẻ những suy nghĩ “nội địa” đã không còn nhiều như trước đây
nữa. Nhưng hồi đó, mình chơi với mấy anh bạn Hải Phòng thân đến mức được gọi một
cái tên rất “trìu mến” là “Serguei Chợ Sắt” (chứ không phải Chợ Giời) – một thứ
tình cảm rất “hoa phượng đỏ”…
Ảnh trong bài chỉ có tính chất minh họa. Tấm đầu do mình chụp bằng máy phim, năm ngoái. Tấm sau lấy ở trên mạng.
No comments:
Post a Comment