Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma

Thời gian không đợi ai. Kể từ khi chào đời, chúng ta cứ từng phút từng giây tiến đến gần đoạn kết, về cái chết. Đời sống con người là như vậy, thế giới này, vũ trụ này, tất cả đều như vậy cả…

Tâm của chúng ta đây, cho dù hiện tại chứa đầy vô minh và khổ đau, vẫn có thể chuyển thành tâm giác ngộ của một đấng Phật đà. Nếu nói về vật chất tiền tài thì đúng là nên tri túc, đừng ham muốn. Nhưng trên lĩnh vực tâm linh, vì tiềm năng của tâm thức con người không giới hạn mà đời sống thì lại có hạn, cho nên phải cố gắng tối đa, tận dụng khoảng thời gian sống ngắn ngủi để làm hết những gì tâm có thể làm được, nhờ kiếp người quý giá này…

Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma

Thursday, September 25, 2014

Làng Chuông ai còn “chằm” nón?

Nếu như viết một bài “thổn thức” về quê hương, mình sẽ mở đầu như thế này: “Làng Chuông, hay như người ta gọi là Làng Nón Chuông, là một làng sầm uất, đông đúc, nằm bên cạnh dòng sông Đáy nên thơ, uốn khúc cong cong… nơi đây còn có đình – chùa Chuông nổi tiếng, đã được phong tặng Di tích lịch sử văn hóa, cấm có được vi phạm…”

Từ ngày có nhiều “máy ảnh gia” về làng quê mình chụp choẹt, làng nổi tiếng hẳn. Chụp ảnh nào mà post lên Facebook, nó hỏi “ở đâu” mà gõ làng Chuông là ra ngay – nhưng ghét cái là ông bợm nào đó trước đây đã điền “Làng nón Chuông, Chương Mỹ, Hà Tây” – đá cho cái bây giờ, làng Chuông là xã Phương Trung, Thanh Oai, Hà Tây, nay là Hà Nội – nghe thế mới oách chứ. Ấy thế mà hôm qua chính mình cũng nhầm chùa Thày, xã Sài Sơn, sang huyện Thạch Thất – nó phải là huyện Quốc Oai mới đúng. Đúng là không phải quê mình, nhiều khi cũng lười cái chuyện tra cứu lại trên mạng, internet, hỏi bác sỹ Gu-gờ…

Cũng vì các máy ảnh gia tràn về chụp ảnh mà đưa lên mạng, mình hay đọc thấy người ta viết “về làng Chuông xem “chằm” nón” mà lấy làm lạ lẫm – quê hương ta đó mà ta chẳng nghe từ đó bao giờ. Từ bé, mình về quê thường nghe người làng nói một từ thật đặc biệt: “thắt nón” – hay chính là “khâu nón” – chứ không nói “chằm nón”. Tuy nhiên, từ này có trong Từ điển tiếng Việt (Nhà xuất bản khoa học xã hội 1977) – “chằm nón là việc khâu nón, áo tơi hoặc buồm bằng sợi to” (sách đã dẫn, trang 144, cột 1 mục từ số 4 từ trên xuống.)  

Làng Chuông một làng là cả một xã – cách đây hai chục năm đã một vạn dân, thuộc hàng đông của huyện, có đến bảy thôn: Tây Sơn, Chung (Trung?) Chính, Mã Kiều, Quang Trung (Ngõ Nghè), Tân Tiến, Tân Dân (nay tách làm hai Tân Dân 1 và Tân Dân 2 – bảy thôn hóa tám), thôn Liên Tân hay xóm bãi… đã từ lâu, lâu lắm, làng có nghề truyền thống làm nón. Chuyện này mình nghe kể lại thôi nhé, ngày xưa làng làm nón đấu – hay còn gọi là nón thúng quai thao, vành to tướng phẳng bên trên, và bên trong thì có cái vành nữa vừa vào đầu để đội, như cái đấu, nên gọi là nón đấu. Nón này làm bằng thứ lá khác với lá nón bây giờ: lá gồi, nó dày hơn do đó, nặng hơn lá nón, vốn làm bằng lá cọ. Lá gồi trước khi đưa vào thắt thành nón đấu (thúng) quai thao, cần phải xử lý kỹ: phơi phóng ngâm tẩm gì đó mình không rõ, nhưng có một công đoạn rất quan trọng và đặc biệt: người ta rải lá gồi ra một chỗ rộng, rồi dùng một hòn đá cuội lớn và nặng loại lấy ở suối, đập thật mạnh, cứ đập đi đập lại cho nó mỏng và phẳng… việc này là một việc kỹ lưỡng và mất nhiều công sức, được người làng Chuông gọi là “chằm”. Như thế, ở làng Chuông, có “chằm lá”, lá là lá nón.

Nghề nón như vậy ở làng, mới đầu là nón quai thao, còn nón như bà con bây giờ hay đội hình chóp nhọn, được một người mang về cho làng Chuông chỉ vào khoảng trước năm 1940 thôi, đó là ông tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu. Ông này không chỉ giới thiệu cho làng Chuông cái mặt hàng mới này, mà còn là người phát triển nghề lụa của làng Vạn Phúc nữa; nôm na là người phát triển làng nghề cho rất nhiều làng trong tỉnh của ông. Có lẽ bây giờ đồng chí bí thư tỉnh ủy kính yêu của chúng ta trăn trở với “trồng cây gì nuôi con gì” như thế nào thì ngày xưa ông Hoàng Trọng Phu cũng trăn trở như thế. Chuyện, quan phụ mẫu cơ mà!

Sau Cách mạng tháng Tám, cái nón đấu (thúng) quai thao giảm dần rồi mất hẳn, chứ hồi đầu thế kỷ chắc là thịnh lắm:

“Hôm nay đi Chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương.
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương.
Khăn nhỏ, đuôi gà cao,
Em đeo giải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới,
Tay cầm nón quai thao.
Me cười: “Thầy nó trông!
Chân đi đôi dép cong,
Con tôi xinh xinh quá!
Bao giờ cô lấy chồng?” 

"Đám rước" - Tranh của Nguyễn Phan Chánh
Ngày xưa hồi bé, còn mê tranh lụa của Mai Long trong chuyện tranh Tấm Cám, thấy cô Tấm cô Cám đều đội nón quai thao, rồi sau này mê mẩn bức “Đám rước” của Nguyễn Phan Chánh, lại cái nón quai thao và áo tứ thân… tim mình cứ lặng đi, đó, hình ảnh quê hương đó, bây giờ Ngọc Trinh tân kỳ cứ áo tắm nu-dze đi, anh em ta lạc hậu cứ phải thích những cái “cổ hủ” kia cơ… nhân tiện nhắc bài thơ “Chùa Hương” – sao mà cái đoạn “con tôi xinh xinh quá! bao giờ cô lấy chồng?” – đảm bảo những ai có con gái chưa đến tuổi đôi tám, cứ nhăc đến câu này lại thấy tim mình xao xuyến, ai muốn nó xa mình đâu, nhưng đến tuổi là phải lấy chồng, phải gả phải bán, và phần nhiều là nó xa mình…

Chiếc nón Huế được đem ra làng Chuông, làng Chuông có mặt hàng mới để sản xuất, người ta gọi là “nón Xuân Kiều”, chiếc nón nhỏ nhỏ, ít công hơn và phù hợp hơn với đời sống, nhất là dùng để lao động. Riêng nhà mình, không biết bao đời có nghề làm nón, ngay cả ông ngoại mình sau này học hành đỗ đạt, làm quan thời Pháp thuộc, nhưng vẫn giữ nghề làm nón. Bà ngoại quê ở làng bên cạnh, cách chừng một cây số nếu đi đường đê sông Đáy, còn đi đường cái thì đến ba, bốn cây số… theo chồng về làng sau khi làng bà nhận được vài xe gạch Bát Tràng lát đường làng. Bà ngoại về, theo nghề nón nhưng không làm nón, mà đi buôn lá nón từ mạn ngược (thường những vùng Trung Du nhiều cọ) về làng. Mỗi lần bà chở về làng vài xe lá nón, mà thời đó, thuê cả vài ô tô mà chở, là buôn to lắm. Cũng lại vì thế, làng bà ngoại vốn có nhiều con gái xinh – có cả lương lẫn giáo, cả theo Phật – trở nên đẹp đẽ khang trang nhất vùng.

Để làm nón, còn phải buôn hoặc sản xuất nhiều phụ kiện khác ngoài lá nón: chỉ màu để tết cái chỗ mà buộc quai nón, vành nón, chuốt nan nón… đến cái vành tròn bé nhất không làm bằng tre được, cũng phải có – nó làm bằng kim loại mạ màu vàng sáng chóe. Lại có nhà không làm nón, mà chỉ tập trung in hoa và các hình vẽ khác lên giấy, để nhà khác lấy về, khâu vào nón. Lại có những nhà có người làm nghề mộc, chuyên chế tạo cái khuôn làm nón, căn cứ trên cái khuôn đó mà người ta căng nan lên, lợp lá rồi ngồi xuống thoăt thoắt, thoăn thoắt khâu nón… Lại còn phải buôn cả dây cước để thắt nón nữa chứ… ngày xưa những mặt hàng này bán đầy chợ Chuông (chợ Chung (Trung?) Chính, họp ngay chỗ đình, chùa Chuông) – nay chỉ còn ít hàng bán thôi.

Trong họ nhà mình có những người làm nón khéo nhất làng, rồi lại có những nhà sinh nhiều con gái… toàn khéo tay, nên thường tập trung làm “nón kỹ” – thắt nón bằng những mũi kim nhỏ tăm, chỉ khoảng một milimét thôi. Còn những cái nói “dối” khâu đụp, rẻ tiền hơn nhiều. Nhà ông bác, cách đây mười mấy năm còn khâu nón, chỉ thắt nón kỹ, không thắt hàng chợ. Cũng ít làm hàng dày và nặng, mà làm cả nón mỏng tang trắng muốt như “nón bài thơ” ở Huế. Về sau mấy bà chị họ khéo tay của mình, sang học nghề may quần áo, trở nên những thợ rất giỏi và mở cửa hàng may quần áo cho những người… còn thắt nón, rất phát đạt, nhưng làng mất đi mấy tay thắt nón rất khéo.

Có người làm nón, phải có người buôn bán nón. Ông anh họ chính là tay buôn nón sừng sỏ, ông ấy chở nón đi khắp nơi để giao hàng – giao sang tận Trung Quốc. Có hồi, bên Trung Quốc đặt hàng loại nón loe loe, đội vừa giống mấy ông dân tộc Choang hoặc Miêu, lại giống mấy tay trong kiếm hiệp Kim Dung. Khoác thêm cái áo tơi nữa là ô-kê luôn. Làng như thế không thuần nông, có nghề thủ công lại thêm buôn bán, nên thời mở cửa, cũng nhiều tệ nạn. Riêng con đường chính đi từ đường cái vào đến Chợ Chuông, thời sốt đất, nhà cửa đắt như ngoài Hà Nội.

Nhớ mỗi lần mẹ mình về quê, là mang ra vài cái nón. Cái dày, để bà đội đi chợ. Cái mỏng, mẹ đội đi dạy học – buộc cái dây vải mỏng tang như voan, màu tím, màu hồng… nhà cô giáo kiêm thợ may, gì chứ vải đề-xê không thiếu. Mẹ mang quang dầu cái nón đội cho đỡ thấm nước và đỡ mốc, đi xe đạp. Có những hôm gió to, cái nón lật úp vào mặt, mẹ loạng choạng, suýt ngã… Rồi mình lớn hơn, theo các anh lớn đi lấy lõi ngô bẻ làm đôi, chơi trò “lật nón”. Các chị đi xe đạp qua phố, đáp cho nửa cái lõi ngô vào nón, ụp xuống, các chị nhảy phắt xuống xe đạp, chân chống chống xuống đường, đội lại nón, nhảy lên xe phóng mất dạng trong tiếng cười khoái chí của lũ choai choai.

Lên mạng xem ảnh của các máy ảnh gia, thấy đặt kép-xừn “nghệ nhân chằm nón” – toàn mấy bà bác mồm miệng móm mém, mặt nhăn nheo như táo tầu cả lượt. Chỉ năm ngoái, về quê chơi chụp bà bác mẹ của mấy thợ may kia, mấy kiểu ảnh rất đẹp (chụp người nhà dễ hơn.) Năm nay chính bà bác xưa đẹp gái nay đẹp lão ấy, đã thành người thiên cổ…

Rồi thì người cũng thiên cổ hết, nghề nón cũng vậy thôi… và rồi thì, “thắt nón” hay “chằm nón”, cũng chẳng còn quan trọng nữa…

Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây 

No comments:

Post a Comment