Mùa xuân thì năm nào cũng đến,
và nó đến thì cũng mang theo biết bao nhiêu chuyện. Những câu chuyện của đầu
xuân năm mới thời của mạng xã hội bây giờ năm nào cũng như năm nào, càng ngày
càng ít chuyện hay ho mà chuyện còn chưa ổn mỗi năm một nhiều. Chuyện lặp đi lặp
lại đến mưc “chán chẳng buồn nói,” chợt nhận ra chưa lúc nào chúng ta thử đi
tìm một nguyên nhân cô đọng nhất cho tất cả những chuyện thiếu hay ho đó.
Như chuyện lễ hội, ra Giêng hết
Tết là liên miên lễ hội, đến 8, 9000 lễ hội khắp các địa phương và người ta phải
than lên rằng sao mà người Việt Nam bây giờ sính lễ hội, mê mẩn cầu cúng, xin lộc
cướp lộc đến thế. Mọi thành phần xã hội đều có thể được điểm mặt ở đây, từ nam
thanh nữ tú đến doanh nhân và cả công chức, không thiếu ông to bà nhớn… hết thảy
đều sẵn sàng tham gia.
Thấy toát lên trong tất cả những
lễ hội ngày một nhiều, ngoài sự thiếu hiểu biết về những hoạt động mang tính
văn hóa, tín ngưỡng; ngoài sự lợi dụng thiếu hiểu biết đó để trục lợi cá nhân…
được bao trùm bởi biểu hiện của bệnh hình thức. Lễ hội đương nhiên là sự trình
diễn lại những phong tục, những tuồng tích… từ xa xưa, có tác dụng nhắc nhở con
cháu thời nay không quên những gì tốt đẹp thuộc về lịch sử. Nhưng khi diễn lại
tuồng tích mà lại lẫn lộn với cầu cúng, lại sa vào mê tín.
Chính bệnh hình thức mới nảy
sinh ra những lễ vật mang tính kỷ lục, mà thực sự chưa có một nghiên cứu nghiêm
túc nào cho thấy trong truyền thống có những cái đó hay không, hay ở hiện tại
những lễ vật kỷ lục đó thực sự có ích gì không.
Chen lấn xin lộc, xin vật “khước”
lấy may cũng vậy – chỉ là những vật dụng vừa bày trên bàn thờ, những mảnh nhựa
mảnh bìa vô tri nhưng qua hoạt động cầu cúng của con người mà chúng trở nên
linh thiêng, đáng để chen lấn bẹp ruột tranh cướp cho bằng được. Ít ai đặt câu
hỏi rằng liệu có thực sự Phật hay Bồ Tát có giáng trần, phù phép, ban phước vào
những cái thứ được gọi là “lộc” đó hay không.
“Năm nào cũng vậy…” câu đó bị
nhắc lại bao lần, nhưng chúng ta quên mất việc nhìn lại và đặt câu hỏi, rằng
năm trước, năm trước nữa… các lễ hội, cầu cúng… vẫn diễn ra và năm ngoái, năm
kia vẫn chính chúng ta tranh cướp được từng này cái ấn, từng kia cái “lộc thánh
lộc chùa…” nhưng hiệu quả của chúng mang lại trong năm như thế nào? Nếu năm
ngoái cướp được cái “ấn” mà ăn nên làm ra, năm nay ta lại đi cướp tiếp, hay làm
ăn thua lỗ ta cần cướp nhiều gấp đôi gấp ba? Thực sự chưa có nghiên cứu nào
nghiêm túc về vấn đề đó.
Chỉ thấy một sự thiếu hiểu biết
là quá rõ ràng.
Vài năm trở lại đây, qua báo
chí truyền thông, chúng ta cũng biết được cứ qua một cái Tết thì toàn quốc lại
có vài nghìn ca nhập viện vì… đánh nhau. Nếu “nhận xét nhanh” thì dễ cho rằng
người Việt Nam bây giờ trở nên hung dữ hơn và ít yêu thương nhau hơn. Thậm chí
có người nhận định rằng chúng ta trải qua mấy chục năm chiến tranh, việc ca ngợi
chủ nghĩa anh hùng đã làm cho người dân quá quen với việc muốn sử dụng bạo lực
với đồng bào.
Riêng tôi bây giờ lại nghĩ
khác đi một chút. Thẳng thắn mà nói, những biểu hiện ưa dùng bạo lực của người
Việt Nam ngày nay không phải là dũng cảm, nên nếu nói người Việt “dũng cảm” cần
phải có thêm cái ngoặc kép.
Ở đâu cũng sẽ có ẩu đả, nhưng
nếu đi ra nước ngoài sẽ thấy ít nơi mà con người khi ẩu đả lại ưa thích sử dụng
hung khí như ở Việt Nam. Ẩu đả của người Việt bây giờ là “gọi hội” theo kiểu bầy
đàn và dùng hung khí nguy hiểm để giành phần thắng, chứ không còn kiểu ẩu đả
“quân tử” mặt đối mặt bằng chân tay nữa. Vì vậy thời nay, người Việt đã đánh
nhau là thành án mạng, chứ không chỉ với những vết bầm tím hoặc cục u trên đầu
của thời cách đây 2, 30 năm.
Chúng ta cần phân biệt rõ giữa
chiến thuật du kích mưu mẹo đầy trí khôn với “cắn trộm,” điều này cũng sẽ đúng
với thời nay, thời của khởi nghiệp làm giàu chính đáng. Một trong các yếu tố dẫn
đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt rất kém là ý thức làm ăn chụp giựt rất
cao, trong khi đó tính cộng đồng cho một quá trình phát triển bền vững lại hầu
như không có.
Tựu trung lại, điều người Việt
còn đang thiếu là sự dũng cảm. Người Nhật hoặc người Hàn có hèn kém không khi gặp
chúng ta họ cúi mình thật thấp, thấp hơn người đối thoại rất nhiều. Chắc chắn họ
không hèn kém, vì những gì họ làm được cả thế giới phải ngưỡng mộ. Còn chúng ta
thì quá kiêu hãnh không biết cúi đầu, nhưng thực sự những gì đang diễn ra xung
quanh chúng ta, khó có ai có thể ngưỡng mộ được, nếu không nói là đáng hổ thẹn.
Chúng ta không đủ dũng cảm để
nhường nhịn người khác đi trước trên đường, thì cũng không đủ dũng cảm để chấp
hành pháp luật – như thế việc vượt đèn đỏ, cướp đường chỉ là biểu hiện của sự
liều lĩnh một cách hèn kém, chứ đâu có phải là dũng cảm.
Trông chờ ở sự ban ơn, ban huệ
ở tận đâu đó… thì có dũng mãnh đến mấy để cướp được “lộc,” thì sự dũng cảm đó
cũng vẫn chỉ là sự hèn kém. Có bao giờ chúng ta đủ dũng khí gạt cái cám dỗ của
phần “con” đó đi, để phần “người” dẫn dắt chúng ta dạo bước du xuân, tôn trọng
sự thanh tịnh nơi của Phật?
Nói đi thì cũng phải nói lại,
tất cả những gì tôi nhận thấy và viết ra ở đây phần lớn từ chia sẻ từ mạng xã hội.
Và tôi muốn đặt câu hỏi, rằng khi than phiền của chúng ta hôm nay về những chuyện
chẳng lấy gì làm hay ho đó, đã bao giờ chúng ta đủ dũng cảm nhìn thẳng vào tâm
can của mình xem mình đã có gì khác, hay hơn như thế chưa? Chỉ trích không khó,
nhưng biết đó là chưa đẹp và cũng thấy mình chưa tốt đẹp, mới là khó.
Mỗi người trong số chúng ta cần
phải có dũng khí, nhưng không phải để chỉ trích, mà nhìn và thấy có bản thân
mình trong những điều chưa hay ho đó, để mình ngày một tốt đẹp hơn, và mùa xuân
cũng sẽ đẹp và ý nghĩa hơn…
Bài trên Tuần Việt Nam tại đây
No comments:
Post a Comment