Máy bay Vickers Viscountcủa Hàng không Rhodesia cùng loại với hai chiếc bị bắn rơi |
5. Hai chuyến
bay 825 và 827 của Hàng không Rhodesia
Đây là những chuyến
bay theo tuyến cố định của Hãng Hàng không Rhodesia, 825 từ Thác Victoria qua
Kariba tới thủ đô Salisbury, 827 thì từ Kariba cũng tới Salisbury. Hãng này sử
dụng những máy bay loại Vickers Viscount thuộc loại máy bay tầm trung động cơ
tuabin cánh quạt do Anh quốc chế tạo. Chúng đã bị bắn rơi bởi Quân đội Nhân dân
Cách mạng Zimbabwe (Zimbabwe People's Revolutionary Army (ZIPRA)) trong cuộc Chiến
tranh Nam Rhodesia (nội chiến) hay còn gọi là cuộc “Chiến tranh bụi rậm
Rhodesia.” (Tiếng Anh “Rhodesian Bush War”, tiếng Nga “Война в Южной Родезии”
hay “Война в Родезийском буше”.)
Vào ngày 3
tháng Chín năm 1978, chiếc máy bay Vickers Viscount còn có tên riêng là “Hunyani”,
chở theo 4 thành viên tổ lái và 52 hành khách, chỉ một thời gian ngắn sau khi
xuất phát – khoảng 5 phút khi còn đang lấy độ cao, nó bị một nhóm du kích ZIPRA
bắn bởi một tên lửa đất đối không do Liên Xô sản xuất, loại Strela-2 dẫn mục
tiêu bằng hồng ngoại. Máy bay bị hỏng nặng ở cánh, buộc phải hạ cánh khẩn cấp
xuống một cánh đồng bông phía tây Karoi (thành phố phía bắc Zimbabwe), nhưng nó
vấp phải một cái mương, vốn không thể quan sát được từ phía tổ lái. Có đến 38
người chết trong số 56 người trên tàu. Năm người trong số 18 người sống sót, đi
tìm nước uống cho những người còn lại và họ đã thoát chết bởi một tội ác diễn
ra ngay sau đó. Quân du kích nhanh chóng theo dấu chiếc máy bay và khi tìm được,
họ đã tàn sát những người còn sống. Chỉ có ba người kịp trốn vào trong các bụi
rậm và không bị quân du kích tìm thấy, còn tất cả bị giết hết. Ba người chỉ
nghe thấy những tiếng súng liên thanh tự động AK-47 bắn giết những hành khách xấu
số. Trong số những nạn nhân của vụ thảm sát, có hai bé gái, một 4 tuổi và một,
11 tuổi. Bảy nạn nhân là phụ nữ, đặc biệt một trong số họ ngoài bị bắn bằng
súng, còn bị đâm bằng lưỡi lê.
Như tất cả
các vụ rơi máy bay khác, trong thời gian đầu tiên sau tai nạn, bao giờ cũng là
những thông tin nhiều chiều, chưa rõ ràng. Sau đây là tóm lược những thông tin
từ tờ Ellensburg Daily Record ngày 5 tháng Chín năm 1978:
“Ông Joshua
Nkomo, đồng chỉ huy của Liên minh Du kích Yêu nước Tiền phương từ Rusanka nói rằng
Quân đội Nhân dân Cách mạng Zimbabwe đã bắn rơi một chiếc máy bay của Hàng
không Rhodesia vào hôm Chủ nhật. Tuy nhiên, Giám đốc của Hàng không Rhodesia
ông Pat Travers thì phủ nhận thông tin của ông Nkomo là máy bay bị bắn. “Cho đến
giờ vẫn chưa có bằng chứng nào cho thấy, chiếc máy bay đã bị rơi bởi một hành động
thù địch. Chúng tôi đã nhận được thông báo rõ ràng từ phía tổ lái rằng hai động
cơ bên phải của máy bay không hoạt động. Nếu như chiếc máy bay bị bắn, thì tổ
bay phải thông báo điều đó cho chúng tôi rồi chứ!” Pat Travers bác bỏ ý kiến
“hoàn toàn và cố tình dối trá” của ông Nkomo về việc chiếc máy bay bị bắn, vì nếu
đúng như vậy thì phải chăng chiếc máy bay chuyên chở lính và phương tiện chiến
tranh?”… “
Bốn ngày sau
vụ bắn hạ, Chính phủ Rhodesia mới thừa nhận nguyên nhân chính thức. Hai tuần
sau, thế giới biết đến vụ thảm sát nhờ một bài trên Tạp chí Thời báo (Anh), một
tin chấn động lúc bấy giờ. Người ta còn được biết đến những tin khủng khiếp như
các nạn nhân nữ đã bị cưỡng hiếp trước khi bị giết, hay cả gia đình người
Rhodesia gốc Ấn Độ 8 người đã bị chết hết
trong vụ này… nhiều lời kêu gọi, thậm chí treo giải thưởng cho ai có thể lôi được
Nkomo về thủ đô Salisbury để xét xử và trừng trị.
Joshua Nkomo Ảnh chụp năm 1978 |
Cuộc “Chiến
tranh bụi rậm” sau đó còn tiếp diễn – Nkomo kêu gọi Liên Xô, còn Tổng thống
Zambia Kenneth Kaunda thì kêu gọi Anh quốc hỗ trợ về quân sự. Về phần Hàng
không Rhodesia, họ buộc phải tìm cách cải tiến những chiếc máy bay Vickers
Viscount của mình để chống lại tên lửa Strela-2 của ZIPRA, sau khi một chiếc Vickers
Viscount thứ hai, số hiệu chuyến bay 827 bay từ Kariba tới thủ đô Salisbury, bị
bắn rơi vào ngày 12 tháng Hai năm 1979, 59 người trên máy bay không ai sống
sót. Họ sơn máy bay bằng một loại sơn có bức xạ hồng ngoại thấp, và tên lửa
Strela-2 không thể bắt được mục tiêu khi máy bay Vickers Viscount lên đến độ
cao từ trên 600 mét. Từ đó, không còn một chiếc Vickers Viscount nào nữa bị bắn
bởi Strela-2 của ZIPRA.
Cuộc “Chiến
tranh bụi rậm” kết thúc, năm 1980 Mugabe lên nắm quyền thông qua bầu cử và đất
nước này trở thành một quốc gia độc lập không còn là thuộc địa của Anh quốc, được
nhiều nước công nhận và trở thành nước Zimbabwe ngày nay.
Một chiếc McDonnell Douglas DC-9-15 của Hãng “Aerolinee Itavia” cùng loại với chiếc "870" bị rơi trong vụ "Thảm sát Ustica" |
6. Aerolinee
Itavia Flight 870 (IH 870, AJ 421)
Ngày 27 tháng
Sáu năm 1980, một chiếc McDonnell Douglas DC-9-15 của Hãng “Aerolinee Itavia” số
hiệu chuyến bay 870, đã rơi ở đâu đó giữa hai hòn đảo Ponza và Ustica trên biển
Tyrrhenian khi nó đang trên đường bay từ thành phố Bologna tới Palermo, thủ phủ
đảo Sicily. 81 người trên máy bay, không có ai sống sót.
Sau nhiều năm
không có bất cứ kết luận điều tra chính thức nào từ Chính phủ Italia, năm 1989,
Chủ tịch Ủy ban chống khủng bố của Quốc hội Italia, nghị sỹ Giovanni Pellegrino
đã ra một tuyên bố về “Vụ chuyến bay 870”, theo đó, họ gọi vụ này là “Thảm sát
Ustica”.
“Sự việc xảy
ra cho 870 là một hành động đánh chặn quân sự, chiếc DC-9 đã bị bắn hạ, 81 người
vô tội đã bị giết bởi một hành động chiến tranh, một cuộc chiến tranh không
tuyên bố, một hành động tội ác quốc tế mờ ám chống lại đất nước chúng ta, vi phạm
chủ quyền lãnh thổ và quyền chủ quyền (của đất nước)…”
Thủ phạm chưa
được phát giác, tòa án do không đủ căn cứ đã tuyên bố xếp hồ sơ. Tháng Sáu năm
2008, các công tố viên Roma đã đưa vụ án vào điều tra lại sau khi Tổng thống
Italia ông Francesco Cossiga (lúc xảy ra vụ rơi 870 là Thủ tướng Italia) tiết lộ,
“870” bị một máy bay chiến đấu Pháp bắn rơi. Ngày 7 tháng Bảy năm đó, các yêu cầu
về trách nhiệm được chuyển tới Tổng thống Cộng hòa Pháp.
Trước đó, đã
có nhiều cố gắng buộc tội các lãnh đạo cấp cao của Không quân Italia: có đến 4
vị tướng bị buộc tội phản quốc do đã cản trở hoạt động điều tra và bưng bít
thông tin. Tuy nhiên, ngày 30 tháng Tư năm 2004, có thông báo rằng hai vị tướng
Corrado Melillo và Zeno Tascio không phạm tội. Hai vị tướng còn lại, tiếp tục
kháng cáo và đến ngày tháng năm Tòa án tối cao Italia ra phán quyết đóng vụ án,
hai vị tướng Lamberto Bartolucci và Franco Ferri được tuyên bố vô tội và miễn mọi
trách nhiệm… Tháng Sáu năm 2010, Tổng thống Italia Giorgio Napolitano kêu gọi tất
cả các nhà chức trách Ý hợp tác trong việc điều tra vụ việc. Vào tháng Chín năm
2011, tòa án dân sự Palermo đã ra phán quyết yêu cầu Chính phủ Italia phải trả
100 triệu Euro (137.000.000 đôla) là khoản bồi thường thiệt hại về mặt dân sự
cho thân nhân của các nạn nhân, vì đã không bảo vệ an toàn chuyến bay, che giấu sự thật và hủy chứng cứ.
Gần đây nhất,
ngày 23 tháng Giêng năm 2013, Tòa án hình sự tối cao Italia đã ra phán quyết rằng
đã có đầy đủ chứng cứ rõ ràng, rằng máy bay 870 đã bắn hạ bởi một tên lửa đi lạc
và công nhận phán quyết của các tòa án cấp dưới yêu cầu Chính phủ Italia phải chịu
trách nhiệm bồi thường.
Như vậy mới
chỉ quy được trách nhiệm bồi thường về mặt dân sự cho Chính phủ Italia, còn
chưa có cá nhân nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì vụ “870”.
Một chiếc “Canadair CL-44” của Hãng vận tải hàng không “Transporte Aéreo Rioplatense” cùng loại với chiếc bị rơi ở Armenia năm 1981 |
7. Vụ va chạm
trên bầu trời Armenia năm 1981
Bối cảnh của
vụ va chạm là thế giới đang trong giai đoạn của vụ bê bối “Irangate”
(“Contragate”) – Cục tình báo trung ương Hoa Kỳ bí mật bán vũ khí cho Iran bất
chấp lệnh cấm, khi Iran đang ở trong tình trạng chiến tranh với Iraq. Trên thực
tế, đây là sự hợp tác giữa Hoa Kỳ – Israel – Argentina. Vũ khí được chuyển từ
Tel Aviv đến Tehran bằng máy bay của hãng “Transporte Aéreo Rioplatense” (Hãng
vận tải hàng hóa hàng không Argentina) mà sau này nó bị phát giác, được “chống
lưng” bởi những quan chức cấp cao của Không lực Argentina. Họ sử dụng máy bay vận
tải thương mại “Canadair CL-44” do Canada chế tạo.
Một người
Scotland tên là Stuart Allen McCafferty được thuê để chở từ Tel Aviv đến Tehran
360 tấn phụ tùng xe tăng và đạn dược do Hoa Kỳ chế tạo, ông này có một đối tác
là tay buôn vũ khí người Thụy Sỹ Andreas Jenni. Stuart Allen McCafferty bị cho
là đã sử dụng dịch vụ của các hãng hàng không Hoa Kỳ để chuyên chở đến 15
chuyên “dược phẩm” từ Tel Aviv tới Tehran. Tháng Sáu năm 1981, Stuart Allen
McCafferty đã tới Buenos Aires và sau đó đạt được thỏa thuận với Transporte
Aéreo Rioplatense tham gia chuyên chở “hàng” cho ông ta. Hai chuyến đã được thực
hiện trót lọt, theo đường Tel Aviv – Larcana (đảo Síp) – Tehran. Chuyến thứ ba,
sau khi giao hàng xong chiếc máy bay quay về Larcana thì vụ va chạm đã xảy ra. “Canadair
CL-44” đã bay lạc hướng về phía biên giới Thổ Nhĩ Kỳ và sau đó, vào không phận
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết Azerbaijan thuộc Liên bang Xô-viết. Một
chiếc tiêm kích đánh chặn Su-15 của Không quân Liên Xô đã được lệnh cất cánh để
ngăn chặn chiếc máy bay vận tải. Sau nhiều cố gắng liên lạc bằng vô tuyến, tổ
lái áy bay vận tải và phi công tiêm kích không thể giao tiếp được với nhau, kể
cả khi phi công tiêm kích đã ra hiệu bằng cách lắc cánh máy bay. Tổ lái chiếc
máy bay vận tải đã quay mũi về hướng biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, còn chiếc Su-15 của
Không quân Xô-viết thì lại cố gắng ép nó bay về căn cứ của mình, và thế là va
chạm đã xảy ra. Cả hai chiếc máy bay cùng rơi, phi công Liên Xô thì nhảy dù được
an toàn, còn chiếc máy bay vận tải thì rơi gần Yerevan, thủ đô nước Cộng hóa xã
hội chủ nghĩa Xô-viết Armenia. Ba thành viên người Argentina và vị “hành khách”
38 tuổi Stuart Allen McCafferty bị chết. Ngay sau vụ va chạm, tay buôn vũ khí
người Thụy Sỹ Andreas Jenni đã nói với các phóng viên tại Zurich, rằng “máy bay
vận tải đã bay vào không phận Thổ Nhĩ Kỳ đến 125 dặm, nhưng bị “máy bay Liên Xô
ép nó quay về không phận Liên Xô” và sau đó bị đâm hoặc rơi trong biên giới
Liên Xô.” Còn Tòa đại sứ Argentina yêu cầu Bộ ngoại giao Liên Xô cho phép họ được
tiếp cận nơi máy bay rơi, trong khi đó thì phía Liên Xô từ chối không tiết lộ
nguồn gốc của chiếc máy bay vận tải thương mại…
Sau này, các
chuyên gia Phương Tây đã đặt giả thuyết, rằng phi công Xô-viết đã đánh giá sai
tình hình sau đó cố tình đâm vào chiếc máy bay vận tải, và những báo cáo, chỉ
là kết quả của một sự hư cấu…
Theo “The
Bulletin” và UPI – ngày 27 tháng Bảy năm1981.
8. “Korean
Air Lines Flight 007” hay “KAL007”.
Năm 1983, một
vụ bắn máy bay hành khách đã xảy ra – có lẽ là vụ việc đình đám nhất và được
người dân Việt Nam biết khá nhiều, ngay từ thời đó, vì báo, đài của Việt Nam
cũng đều có đưa tin. Đây là một sự kiện nghiêm trọng, kể cả về số nạn nhân lẫn
hậu quả sau này về pháp lý và nhất là về quan hệ quốc tế cho Liên Xô. Chiếc
Boeing 747 số hiệu chuyến bay 007 của Korean Air Lines bay vào không phận Liên
Xô đã bị bắn hạ bởi một chiếc Su-15TM đóng tại Sakhalin, giết chết 246 hành
khách và 23 thành viên phi hành đoàn trong đó có ông Lawrence McDonald, nghị sĩ
Nghị viện Hoa Kỳ.
Chiếc KAL-007
xuất phát từ New York (Hoa Kỳ) qua tiếp nhiên liệu ở Anchorage (Alaska, Hoa Kỳ)
rồi tiếp tục hành trình của nó đến Seoul. Ngay từ lúc cất cánh, có vẻ như nó đã
bị lệch đường bay dự định về phía bắc, và cứ thế bay lệch dần vào không phận
Liên Xô trong năm giờ rưỡi. Các thông tin sau này đều rất phức tạp để đánh giá,
nhưng hình như người ta hiểu rằng, chiếc KAL-007 đã bay ra ngoài tầm liên lạc với
kiểm soát không lưu Anchorage và cũng không có bất cứ một liên lạc nào của tổ
lái với những chiếc máy bay khác gần đó trong cùng thời điểm. Tuy nhiên, những
thông tin từ bản ghi âm khoang lái cho thấy, tổ lái đã không mảy may nghi ngờ về
những hiểm nguy đang đe dọa họ.
Ngày hôm đó,
theo kế hoạch, là ngày Liên Xô phóng thử tên lửa ở vùng Viễn Đông, thật là một
thời điểm rất nhạy cảm. Vì có vụ thử tên lửa, nên đồng thời trong khu vực cũng
sẽ hiện diện máy bay do thám RC-135 của Hoa Kỳ, và người Xô-viết thì không thể
phân biệt được máy bay nước ngoài, cái nào vào cái nào. Một trong những lãnh đạo
của lực lượng phòng không Xô-viết còn khẳng định rằng, một khi đã bay vào vùng
trời Liên Xô (như vậy và ở thời điểm này?) thì không thể là máy bay dân sự được…
Chiếc KAL-007
đã bay qua trên bầu trời bán đảo Kamchatka của Liên Xô (15 giờ 51 phút giờ quốc
tế), ra khỏi không phận Liên Xô vào vùng trời quốc tế (biển Okhotsk), rồi một lần
nữa, bay vào không phận Liên Xô, nhưng lần này là vùng trời đảo Sakhalin. Từ
khi nó cách bờ biển Kamchatka 130km, bốn chiếc tiêm kích đánh chặn Xô-viết, một
MiG-23 và ba chiếc Su-15 được lệnh cất cánh để ngăn chặn “hành vi vi phạm”. Việc
máy bay Boeing bay vào rồi lại ra khỏi không phận Liên Xô, rồi lại vào một lần
nữa, trên thực tế, nó vẫn bay theo một đường thẳng (xem bản đồ). Tuy nhiên, thời
điểm ngăn chặn và thời điểm bắn hạ, vị trí chính xác của các máy bay vào từng
thời điểm, lại là điểm dễ gây tranh cãi. Đã có những khó khăn và trục trặc nhất
định từ phía Bộ tư lệnh phòng không Xô-viết vùng Viễn Đông trong việc ra lệnh
cho những chiếc tiêm kích của mình – vốn chỉ là những chiếc tiêm kích đánh chặn
nên có rất ít nhiên liệu, lại phải hoàn thành nhiệm vụ trước khi để mất hút chiếc
Boeing. Hơn thế nữa, theo đại úy không quân Xô-viết Alexander Zuyev (người đã
đáo thoát sang Phương Tây vào năm 1989) thì các trạm rađa của Liên Xô đã bị những
cơn cuồng phong Bắc Cực cuốn phăng từ 10 ngày trước đó.
Tư lệnh lực
lượng phòng không Xô-viết vùng Viễn Đông, tướng Valery Kamensky tuyên bố chiếc
máy bay bị bắn rơi ở “vùng biển trung lập” và sau khi được xác định rõ, nó
không phải là máy bay dân sự. Còn cấp dưới của ông ta, tướng Anatoly Kornukov
chỉ huy trưởng căn cứ không quân Sokol (người sau này trở thành Tư lệnh không
quân Liên bang Nga) thì chẳng cần thiết phải xác định gì hết, khi mà “kẻ xâm nhập”
rõ ràng đã bay qua bầu trời Kamchatka…
Không chút
nghi ngờ về sự nguy hiểm, tổ lái KAL-007 liên lạc với Trạm kiểm soát không lưu
Tokyo rồi nâng độ cao (để tiết kiệm nhiên liệu), đồng nghĩa với giảm tốc độ,
nhưng chính hành động này bị các phi công tiêm kích hiểu rằng, đó là một thủ
pháp bay, “cơ động để lẩn tránh.” Lần thứ hai, tướng Kornukov ra lệnh bắn hạ
chiếc Boeing, và thiếu tá Genadi Osipovich người lái một trong ba chiếc Su-15,
đã bắn hai quả tên lửa không đối không “Kaliningrad” K-8 (còn gọi là tên lửa
R-98) vào nó, làm nó rơi xuống biển Nhật Bản vào lúc 18 giờ 26 phút GMT. Năm
2003, trả lời phỏng vấn của tờ Komsomonskaya Pravda, trung tá Genadi Osipovich
kể lại: “Tôi nói với mặt đất rằng “nhìn thấy đèn nhấp nháy.” Thông thường, thì
máy bay dân sự bao giờ cũng phải có đèn nhấp nháy, còn máy bay do thám quân sự
thì không, và tôi không nhìn thấy người (hành khách). Tôi có nói với mặt đất rằng
có đèn nhấp nháy, điều đó có nghĩa là họ biết đó là máy bay dân sự. Với tôi, đó
chỉ là chiếc máy bay do thám và chỉ có tổ lái trên khoang…” Ông cho rằng ông đã
không hạ sát 269 người trên chiếc Boeing, mà đơn giản, chỉ là hoàn thành nhiệm
vụ chiến đấu của mình mà thôi.
Trước đó vào
năm 1991 trả lời phỏng vấn của Izvetia, Genadi Osipovich lúc đó còn là thiếu tá
nói: “Họ giảm tốc độ rất nhanh (do nâng độ cao), vào khoảng 400 km/h, còn của
tôi thì phải hơn 400 km/h, đơn giản là tôi không thể bay chậm hơn. Tôi không thể
để máy bay mất tốc độ và mất điểu khiển, còn tăng tốc thì tôi sẽ bay vượt qua họ.
Chính xác đó là những gì đã diễn ra. Chúng tôi đã bay qua đảo (Sakhalin), và mục
tiêu sẽ tuột mất. Mặt đất ra lệnh: “Hạ mục tiêu đi!” – thật dễ dàng để ra lệnh,
nhưng hạ bằng cái gì? Bằng đạn pháo à? Tôi đã bắn 243 viên rồi (để cảnh cáo chiếc
Boeing)…” và sau đó là tất cả những gì đã diễn ra. Ông nói tiếp: “Chúng tôi đã
bắn hạ chiếc máy bay một cách hợp pháp... Sau đó chúng tôi bắt đầu nói dối về
những chi tiết nhỏ: máy bay được cho là bay mà không bật đèn hoặc đèn nhấp
nháy, rằng đạn vạch đường đã được bắn, hoặc tôi có liên lạc vô tuyến với họ
trên các tần số khẩn cấp 121,5 MHz…”
Nhưng thời điểm
này chính là thời điểm đỉnh điểm của cuộc chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Hoa
Kỳ, và chính đây là sự kiện được coi là bộ phận quan trọng của cuộc chiến tranh
lạnh đó. Sau sự kiện, người ta còn nói rằng trên chiếc máy bay đó có những thiết
bị do thám của tình báo Hoa Kỳ muốn do thám tình hình bố phòng quân sự của Liên
Xô ở vùng Viễn Đông. Đó cũng là quãng thời gian mà cứ một năm lại quốc tang một
lần do Đảng Cộng sản Liên Xô phải thay tổng bí thư mỗi năm một lần. Lúc chiếc
KAL-007 bị bắn hạ, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô ông Yuriy Andropov rất yếu,
và bị cho rằng có nhiều quyết định không tỉnh táo và sáng suốt. Sự kiện đã kéo
theo những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng cho Liên Xô trên trường quốc tế cũng như
về chiến lược quân sự: một chiến dịch truyền thông rầm rộ được phát động để chống
Liên Xô, một loạt các biện pháp trừng phạt về kinh tế thương mại, như Hàng
không Soviet Aeroflot bị cấm hạ cánh ở nhiều sân bay Hoa Kỳ… và quan trọng nhất
là việc triển khai tên lửa Pershing II của Hoa Kỳ tại Châu Âu, hướng về Liên Xô
và các nước thành viên khối Vacsava…
Bình luận của
“Người lang thang cuối cùng”: Nếu chỉ đọc thông tin “Chiếc KAL-007 hai lần xâm
phạm không phận Liên Xô, bay đến 500km thì dễ tưởng nhầm rằng nó bay vào lại
bay ra, sâu đến 500km vào lãnh thổ Liên Xô.” Trên thực tế, nếu nhìn vào bản đồ
đường bay của nó thì rõ ràng là ngay từ khi xuất phát ở Anchorage (Alaska) nó
đã bị lệch hướng một góc nhất định về phía Tây Nam – Nam và càng ngày càng bay
xa hướng đã định về phía Seoul (1) và nó đi qua không phận Liên Xô hai lần, lần
thứ nhất, nó bay vào rồi lại bay ra không phận Liên Xô trên bán đảo Kamchatka,
khi bay ra nó lại vào vùng biển – vùng trời quốc tế; lần thứ hai nó lại bay vào
và bay trên vùng trời đảo Sakhalin của Liên Xô (2). Khi nó bị bắn rơi, thì nó
đã ra khỏi hoặc chuẩn bị ra khỏi không phận (vùng trời đảo Sakhalin) của Liên
Xô, và bộ chỉ huy Xô-viết do sợ nó bay mất, ra lệnh bắn càng nhanh càng tốt để
nó rơi trong không phận Liên Xô, cũng một phần là máy bay tiêm kích của Liên Xô
chỉ có một lượng nhiên liệu hạn chế, cũng đã đến giới hạn, nếu không bắn thì
cũng không thể theo nó (KAL-007) đi xa hơn nữa. Đáng tiếc cho Liên Xô, sau này
người ta tìm thấy nó rơi trong vùng biển quốc tế - mà như phía Liên Xô đã gọi là
“vùng biển trung lập”.
Theo
“listverse.com”
Tham gia thảo
luận trên Facebook tại đây
Bài đăng trên
Tuần Việt Nam (Vietnamnet) với bút danh Phúc Lai tại đây
Xem tiếp “Những vụ máy bay dân dụng bị bắn (hoặc được cho là bị bắn) trong lịch sử hiện đại –phần 3”
Đọc tiếp phần cuối: "Chuyến bay cuối cùng của Albertina"
Đọc tiếp phần cuối: "Chuyến bay cuối cùng của Albertina"
No comments:
Post a Comment