(Trong bài
này mình tạm chơi chữ “Sultan” chỉ Vua Hồi giáo, thực tế nghe đến Sultan người
ta dễ liên tưởng tới Vua Thổ Nhĩ Kỳ hoặc bây giờ là Oman hơn.)
Trong báo cáo
tuần trước của công ty năng lượng BP đã chỉ ra rằng trong năm 2014, Hoa Kỳ đã
vượt Saudi Arabia và Nga để trở thành nhà sản xuất dầu khí lớn nhất thế giới.
Thực tế việc này đã được nhận ra từ năm ngoái với những sự kiện giá giầu thô thế
giới giảm mạnh, cùng với việc dư luận chú ý nhiều đến quan hệ Nga – Phương Tây
mà giá dầu thô cùng khí đốt, luôn là một trong những nội dung được bàn luận rất
nhiều…
Năm 1956, nhà
địa vật lý M. King Hubbert đã đề ra một lý thuyết về sự “đạt đỉnh” trong sản xuất
dầu khí của Hoa Kỳ - rằng nước này sẽ đạt sản lượng dầu khí cao nhất vào khoảng
năm 1970. Lý thuyết này đã được thực tiễn chứng minh là đúng, năm 1970 sản lượng
dầu thô của Hoa Kỳ đạt 10 triệu thùng một ngày, giảm nhẹ rồi tăng nhẹ trở lại
vào năm 1980 cùng với sự phát hiện khu vực dầu khí vịnh Prudhoe ở Alaska, sau
đó tiếp tục giảm xuống đến mức 5 triệu thùng một ngày vào năm 2006. Cùng trong
thời gian này, lượng tiêu thụ dầu của Hoa Kỳ cũng tăng đều đặn đạt mức 20 triệu
thùng một ngày vào năm 2007, tất nhiên là song hành với đà tăng của lượng dầu
nhập khẩu.
Chúng ta nghe
nhiều đến “Cuộc Cách mạng dầu đá phiến của Hoa Kỳ” trên thực tế sản xuất dầu đá
phiến của nước này gắn với sự phát triển của công nghệ chiết xuất dầu từ đá đã
làm tăng sản lượng dầu trong nước từ năm 2006 như các khu vực Bakken ở Bắc
Dakota hay Eagle Ford tại Texas (2006 cũng là năm sản lượng dầu của Hoa Kỳ đạt
6,5 triệu thùng một ngày). Sản lượng dầu của Hoa Kỳ tăng đều đặn 750 nghìn
thùng một ngày chỉ tính riêng trong năm 2012. Tháng 4/2014, Hoa Kỳ sản xuất 8,4
triệu thùng dầu một ngày, mức cao nhất kể từ 27 năm qua từ dầu Texas và Bắc
Dakota. Sản xuất dầu Texas đạt hơn 3 triệu thùng mỗi ngày, lần đầu tiên kể từ
cuối năm 1970, tăng hơn gấp đôi sản xuất trong ba năm qua; sản lượng của Bắc
Dakota đạt 1 triệu thùng mỗi ngày, lần đầu tiên trong lịch sử và đạt mức gần gấp
ba lần sản lượng trong ba năm gần đây. Về khí tự nhiên, tháng 1/2013, sản lượng
khí tự nhiên của Hoa Kỳ là 64,9 tỷ feet khối, tương đương nhu cầu tiêu thụ
trong nước. Giai đoạn này cũng là giai đoạn kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng chậm và
như người ta nói, “nước Mỹ trên bốn bánh xe,” là đất nước của xe hơi đã bước
vào một tư duy mới với công nghệ xe hơi
tiết kiệm nhiên liệu. Ngoài ra, hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên cũng
làm người ta hướng nhiều sang việc phát triển “tiêu thụ năng lượng xanh” hay tận
dụng chính việc trái đất nóng lên để có các nguồn năng lượng khác, dần giảm nhu
cầu năng lượng hóa thạch. Khi một nền kinh tế xã hội tiêu thụ năng lượng nhiều
nhất thế giới thay đổi định hướng tư duy năng lượng, nó sẽ ảnh hưởng đến sản xuất
dầu khí toàn cầu.
Nhìn qua
chính sách năng lượng Hoa Kỳ, chúng ta có thể khái quát một số điểm chính: thứ
nhất, nếu như trước đây Hoa Kỳ luôn sản xuất khai thác dầu mỏ một cách “cầm chừng,”
để dành cả phần “nạc” (những khu vực dễ khai thác, giá thành thấp) lẫn phần
“xương” (dầu đá phiến) như một nguồn dự trữ quốc gia thì nay bằng sự phát triển
vượt bậc về công nghệ, nước này đã biết cách xử lý phần “xương” một cách dễ
dàng hơn. Thứ hai, cùng với xu hướng toàn cầu trong tiết kiệm năng lượng, giảm
tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch và chuyển sang các nguồn năng lượng khác thân thiện
hơn với môi trường. Thứ ba, là thay đổi bản đồ cung cầu năng lượng toàn cầu, đưa
thị trường tiêu thụ năng lượng Châu Mỹ trở nên độc lập, ít phụ thuộc hơn vào
nguồn Trung Đông và hơn nữa, nước Mỹ trở thành nhà xuất khẩu dầu mỏ và khí tự
nhiên “tầm cỡ,” không chỉ là nhà nhập khẩu có hạng nữa (nhập khẩu dầu mỏ của
Hoa Kỳ trong năm 2015 được dự đoán sẽ giảm 22% so với năm trước và sẽ là mức thấp
nhất trong vòng 45 năm qua.)
Như trên đã
nói, từ năm ngoái người ta đã dự đoán Hoa Kỳ sẽ vượt Saudi Arabia để trở thành
những sản xuất dầu khí lớn nhất toàn cầu (IEA [1] – một tổ chức nghiên cứu độc
lập ở Paris đã từng dự báo thời điểm này là 2020, trên thực tế, nó đã diễn ra sớm
hơn khá nhiều), đúng vào thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng Ukraine và quan hệ
Nga – Phương Tây trở nên xấu chưa từng có, nên nhiều khi việc nước này tăng sản
lượng dầu khí hay bị gắn với một “âm mưu” hạ gục nước Nga trên mặt trận năng lượng
hóa thạch. Trên thực tế, những gì đang diễn ra ảnh hưởng đến nhiều nước sản xuất
dầu khí chứ không riêng gì Nga: Saudi Arabia, Venesuela, Malaysia, và cả Việt
Nam chúng ta. Một ví dụ rõ nhất: Canada là hàng xóm, nước sản xuất dầu chủ yếu
cho thị trường nội địa Hoa Kỳ; ngay trong năm 2013 người ta đã báo cáo nguồn
thu của tỉnh Alberta sẽ giảm 6 tỉ đôla Mỹ nghĩa là tương đương ngân sách giành
cho giáo dục của cả năm.
Ngai vàng của
Sultan và Sa hoàng lung lay dữ dội
Việc dư luận
hướng nhiều về cuộc khủng hoảng Ukraine và quan hệ Nga – Phương Tây và gắn nó với
giá dầu mỏ, không phải không có lý do. Đầu năm 2014 giá dầu thế giới vẫn ở mức
cao, chủ yếu do tình hình nội bộ của một số nước xuất khẩu dầu như Libya hay thất
thoát dầu ở Nigeria… giá dầu Brent giao dịch tại London đạt mức cao nhất là 115
đô-la Mỹ một thùng ngày 19/6/2014. Việc Hoa Kỳ tăng sản lượng dầu đã giúp giữ
cân bằng mức giá, và đến nay thì giá dầu Tây Texas vẫn luôn thấp hơn giá dầu
Brent từ 7 đến 10 đô-la Mỹ. Nếu Hoa Kỳ tăng sản lượng, Saudia Arabia và cả các
nước OPEC không thể giảm sản lượng vì sẽ mất thị phần, đây chính là yếu tố
chính dẫn tới việc giá dầu thô thế giới “rơi” thê thảm trong nửa cuối năm 2014.
Các phân tích
nghiêng nhiều về giá dầu, nhưng trên thị trường khí tự nhiên của thế giới thì
chính Hoa Kỳ và Nga mới là hai “tay chơi” chính, trên thị trường này họ bỏ xa đối
thủ về mặt dầu thô là Saudi Arabia. Ngay trong năm 2013, Mỹ đã lần đầu tiên kể
từ năm 1982 vượt Nga (thời điểm đó là Liên Xô cũ) trong sản xuất khí tự nhiên,
cũng theo báo cáo của IEA. Sản lượng của Nga sẽ tăng nhẹ, nhưng sản lượng của
Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tăng mạnh vào vài năm tới đây. Thị trường của Nga bị ảnh hưởng
mạnh bởi cạnh tranh tăng cũng như sức tiêu thụ toàn cầu giảm.
Sản lượng dầu
thô trung bình của Nga vẫn là khoảng 10,8 triệu thùng một ngày (Saudi Arabia là
11,7 triệu thùng), cao hơn Hoa Kỳ khoảng 900.000 thùng một ngày, nhưng đường đồ
thị thì lại đi theo hai hướng khác nhau – vì với Nga sản lượng đó là giảm từ mức
3 triệu thùng một ngày của vài năm trước đây, IEA nhận định. Người ta hi vọng
đường biểu diễn sản lượng dầu mỏ của Nga sẽ “đi ngang” trong vài năm tới, còn
khí đốt vẫn có thể tăng trưởng hàng năm được 3%. Với Saudi Arabia, đất nước ngồi
trên túi dầu của thế giới “thò xuống là có dầu,” với dân số già một phần năm so
với Nga mà công nghệ khai thác thì tiên tiến hơn nhiều, thì việc vị Sultan này
có mất ngôi xuất khẩu dầu mỏ chăng nữa, chẳng có vấn đề gì lớn. Nhưng với “Sa
hoàng” Nga thì khác. Đánh giá về vị thế của Nga trước những thay đổi về thị trường
dầu khí toàn cầu, bà Tatiana Mitrova, Viện hàn lâm Nghiên cứu Khoa học Năng lượng
Nga hơn 40% ngân sách của Nga từ dầu mỏ và khí đốt, do đó từ năm 2013 Viện này
đã dự báo tình hình khó khăn của Nga bắt đầu từ năm 2015 với sự thâm hụt ngân
sách nghiêm trọng: xuất khẩu dầu mỏ của Nga có thể giám xuống mức 25% đến 30%
sau năm 2015, làm giảm tổng sản phẩm quốc nội hơn 100 tỷ đô-la Mỹ.
Nửa cuối năm
2014 cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, “vũ khí dầu mỏ và khí đốt” thường được
Nga sử dụng hữu hiệu để o ép Châu Âu và đặc biệt là Ukraine, gần như trở nên vô
dụng. Châu Âu vốn là thị trường truyến thống mua khí đốt của Nga, cũng đã dần
chuyển hướng trong cả nguồn cung lẫn cách thức sử dụng năng lượng, và trở nên
“nhờn đòn khí đốt” của Nga. Bản đồ năng lượng thế giới không chỉ được vẽ lại ở
tầm các tay chơi cỡ bự như Hoa Kỳ hay Châu Âu. Trong năm 2014, Turkmenistan đã
cắt giảm lượng khí đốt nhập khẩu từ Nga từ mức 11 tỷ mét khối xuống mức 4 tỷ
mét khối. Đất nước Trung Á có trữ lượng khí đốt đứng thứ tư thế giới này đã tái
khởi động dự án “Đường ống ước mơ” với sự hậu thuẫn của Liên minh Châu Âu để có
thể bán khí đốt sang Châu Âu từ năm 2019. Đường ống này dài 300km dưới biển
Caspian (một biển kín chung của các nước Nga, Kazakhstan, Turkmenistan, Iran và
Azerbaijan), dự án lúc đầu bị vấp phải sự phản đối của Nga và Iran vì lý do hệ
sinh thái mỏng manh dễ tổn thương của biển Caspian. Với quyết tâm cao độ của Turkmenistan
cũng như EU, thì những lý do của Nga cũng như của Iran, dường như không còn là
trở ngại. Dự kiến, đường ống này có thể cung cấp cho Châu Âu từ 10 đến 30 tỷ
mét khối khí đốt mỗi năm. Nước này hiện nay cũng là nước cung cấp lượng khí đốt
lớn cho Trung Quốc qua nhánh C của Đường ống Khí đốt Trung Á – Trung Quốc (vào
Trung Quốc ở Tân Cương và chạy về tận miền duyên hải phía đông nước này.)
"Đường ống ước mơ" |
Nước Nga cũng
không chịu ngồi yên – để tiếp tục chơi ván cờ, Gazprom đã thay dự án đường ống
“Dòng chảy Phương Nam” bị hủy bỏ bằng “Dòng chảy Thổ Nhĩ Kỳ” (vốn đều là những
dự án một mũi tên hạ hai mục tiêu bỏ qua con đường Ukraine và vẫn bán được khí
đốt sang Châu Âu.) Ngoài ra Hợp đồng khí đốt “khủng” với Trung Quốc cũng là môt
phương án đa dạng hóa thị trường tiêu thụ của Nga. Trong tương quan với “Đường ống
ước mơ” thì “Dòng chảy Phương Nam” sẽ có một người cạnh tranh bán hàng khó có
thể xem thường, và nếu không có những “cú hích” đáng kể từ phía Chính phủ thì
Nga sẽ chắc chắn rơi vào tình thế “trở tay không kịp” khi thị trường toàn cầu
thay đổi.
Không nằm
ngoài dự đoán, nước Nga nhanh chóng rơi vào tình thế khó khăn vì mọi kế hoạch
ngân sách đều tính toán dựa trên giá dầu mỏ 110 đô-la Mỹ một thùng. Chúng ta
cũng sẽ tự đặt câu hỏi rằng tại sao từ khi Liên Xô tan rã đến nay đã được hơn
hai thập kỷ, hơn một thập kỷ cầm quyền của Tổng thống Putin nước Nga có kinh tế
tăng trưởng mạnh nhờ giá dầu mỏ lên cao, đã không có những sự đầu tư xứng đáng
vào công nghệ. Ngay cả hạ tầng của ngành dầu khí đang là xương sống của nền
kinh tế cũng đã lỗi thời và lạc hậu, phần lớn có từ thời Xô-viết… điều đó làm
cho thứ hàng hóa chính này của Nga có sức cạnh tranh rất yếu so với dầu dễ khai
thác của Saudi Arabia hoặc công nghệ khí hóa lỏng ngày càng tiên tiến của Hoa Kỳ
nay được chở sang bán cho Châu Âu…
Mấu chốt của vấn
đề là chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên của sức sáng tạo phục vụ cuộc sống.
Nước Nga vốn được kế thừa một nền khoa học và công nghệ không hề “thua em kém
chị” của Liên Xô cũ, nhưng chủ yếu sức sáng tạo của nó bị đóng trong cái khung
cứng nhắc của những nhiệm vụ chính trị, trong khi đáng nhẽ ra nó phải có được khả
năng công nghiệp hóa và thương mại hóa cao, phục vụ trực tiếp cho đời sống và
xã hội. Vài thập kỷ vừa qua, chúng ta đã chứng kiến nước Nhật không cần những ước
vọng tên lửa vượt đại châu hay sản xuất phi cơ, hàng không mẫu hạm… nhưng toàn
thế giới đang phải dùng máy ảnh kỹ thuật số của họ. Chúng ta cũng chứng kiến một
nước không cần chạy theo tàu vũ trụ nhưng chinh phục thế giới bằng những chiếc
xe hơi tuyệt vời mà giá rất cạnh tranh của Hàn Quốc. Chúng ta cũng chứng kiến một
Trung Quốc trở thành công xưởng của thế giới và ngày càng tìm cách “leo lên vai
những người khổng lồ” về khoa học và công nghệ, trở thành một thế lực mới tầm
toàn cầu.
Với tiềm năng
vô cùng phong phú về tài nguyên thiên nhiên thì việc Nga bị đẩy ra khỏi tốp những
nước dẫn đầu thế giới về sản xuất dầu khí cũng còn lâu – nhưng rõ ràng trước những
gì đang diễn ra, nước Nga cần xem lại cách thức “vượt lên dẫn đầu” lâu nay của
mình.
Bài trên Tuần
Việt Nam tại đây
Tham gia thảo
luận trên Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment