Người học Phật hay nghe “Phật
tại tâm” và cũng rất nhiều người nói câu đó, làm mình băn khoăn lắm. Phật ở đâu
mà “Phật tại tâm” và Phật tại tâm như thế nào?
Chúng ta sẽ chỉ “cưỡi ngựa xem
hoa” qua vấn đề này được thôi, chứ không thể đi sâu rốt ráo vì trên thực tế, chẳng
có nhời nhẽ bàn phím nào cặn kẽ được về vấn đề này cả. Mình đi vào học Phật là
những băn khoăn về Triết học, vì thế đến khi đọc về “vấn đề cơ bản của Triết học”
– “Bản thể luận” thì những băn khoăn được hoàn toàn giải đáp trong Phật pháp.
Khoa học của thế kỷ 20 với những
phát kiến về lượng tử, nguyên tử, các hạt cơ bản… bản chất sóng – hạt của vật
chất… đã làm đảo lộn hết tất cả. Chính những phát kiến này, đã làm cho Triết học
đứng trước một thời đại mới: không còn cần thiết phải đặt vấn đề phân biệt “Duy
vật” hay “Duy tâm” (vật chất và ý thức, cái nào có trước cái nào, cái nào quyết
định cái nào.)
Gốc rễ của “chủ nghĩa duy tâm”
là cho rằng, thừa nhận tồn tại một “tinh thần tuyệt đối”, cái tồn tại của nó vượt
lên khỏi không gian, thời gian và là nguồn gốc của vạn vật. “Tinh thần tuyệt đối”
đó tùy vào từng tôn giáo mà người ta cho rằng đó là Thượng Đế, là Chúa Trời… tạo
ra muôn loài.
“Chủ nghĩa duy vật” mà gần gũi
với chúng ta nhất – là chủ nghĩa Mác – Leenin thì cho rằng vật chất có trước, ý
thức có sau, nó quyết định ý thức. Ý thức là hình thức phát triển cao của vật
chất. “Đầu tiên là lao động và sau đó là ngôn ngữ, cùng với bộ não là những tiền
đề để xuất hiện ý thức” – Ăng-ghen đã viết như vậy (Câu này mình chép theo trí
nhớ thời học triết học năm thứ nhất đại học cách đây hai mấy năm, có thể không
chính xác nhưng đại loại vậy.)
Để hình thành nên một cái nhìn
“có vẻ triết học” một tí về vũ trụ quan, nhân sinh quan, mối quan hệ giữa con
người và vũ trụ… trong Đạo Phật thì có nhiều bản Kinh, ví dụ như khi đọc Kinh
Hoa nghiêm Đức Phật mô tả về vũ trụ và khi chúng ta quán chiếu sang những thành
tựu vật lý thiên văn, vũ trụ ngày nay thì choáng váng là tại sao cách đây 2500
năm Đức Phật có thể nói về vũ trụ một cách chi tiết, hoàn mỹ và tuyệt đối khoa
học đến thế. Rồi chỉ cần đọc Bát nhã Tâm Kinh, cũng đã đủ đem lại cho chúng ta
một sự nhận thức tuyệt vời về bản thể của vũ trụ. Đến đây chúng ta hiểu rằng, Đức
Phật đã “quán” được bản chất của vũ trụ, Ngài nhìn thấy, như hòa nhập làm một
trong từng góc nhỏ nhất và xa nhất của vũ trụ mà mô tả lại cho chúng ta.
Từ nhỏ mình đã luôn băn khoăn
vì tính hữu hạn của giác quan con người. Khi đo độ dài một vật nào đó, ta dùng
thước. Nếu đo bằng mét, sẽ không thể chính xác được, ta chuyển sang tính bằng
xăng-ti-mét, à chính xác hơn rồi đấy. Để chính xác hơn nữa, ta đo bằng
mi-li-mét, rồi cả micrô mét, nay người ta còn xài cả nanô mét nữa. Càng chia nhỏ
thì càng chính xác, nhưng chính xác với giác quan con người thôi, chẳng bao giờ
là chính xác rốt ráo cả.
Muốn chính xác rốt ráo, phải
hòa nhập làm một đến tận cùng của sự vật, không chỉ hiểu nó, mà còn phải là nó.
Ta và vũ trụ, phải là một.
Những băn khoăn về không gian,
thời gian… mình cũng đã có từ rất lâu, từ khi bắt đầu học vật lý, khoảng 11 tuổi
gì đó. Cái ước vọng của con người bay được như chim, có thiên nhãn nhìn xa ngàn
dặm, thiên nghĩ nghe được xa vạn dặm… hay uốn mình một cái bay hàng vạn dặm như
Tôn Ngộ Không cũng đã tồn tại hàng vài trăm năm. Khoa học của thế kỷ 20 – 21 đã
cho chúng ta thấy, đó là những điều hoàn toàn có thể thực hiện được. Khi khoa học
chứng minh không gian có thể bị cong, bị co hẹp… thậm chí bị uốn cong, gập lại…
thì khoảng cách trong không gian vũ trụ không còn là vấn đề. Rồi người ta chứng
minh cái đồng hồ ở trên tháp chạy chậm hơn đồng hồ ở dưới chân tháp – điều đó
cho thấy thời gian cũng không phải là một đơn vị hằng số (bất biến) mà nó thay
đổi theo vận tốc di chuyển của vật. khi một người đang di chuyển trên một phi
thuyền không gian với tốc độ bằng 87% vận tốc ánh sáng thì thời gian trong điều
kiện đó sẽ chậm bằng một nửa so với thời gian trong điều kiện bình thường trên
mặt đất. Bên cạnh đó, sự lão hóa của nhà phi hành cũng chỉ bằng một nửa so với
lúc anh ta sống trong điều kiện bình thường. Ví dụ như nếu anh ta có một người
em sinh đôi đang sống trong điều kiện bình thường, sau một chuyến du hành dài
trên một phi thuyền không gian với tốc độ cao, khi trở lại trái đất anh ta vẫn
trẻ hơn rất nhiều so với người em của mình. Trong trường hợp phi thuyền đó di
chuyển với tốc độ bằng 99% vận tốc ánh sáng, thời gian sẽ chậm đi bảy lần, và với
tốc độ bằng 99,9% tốc độ ánh sáng, thời gian sẽ chậm đi 22,4 lần.
Xin tạm dừng phần này ở đây với
lời của Einstein. Trong một bức thư viết vào năm 1955 sau cái chết của Michele
Bosso, một người bạn thâm niên của mình, Einstein đã thổ lộ như sau: “Giờ đây
ông ta đã từ giã thế giới xa lạ này trước tôi một chút. Nhưng điều đó (sự ra đi
trước hay sau) cũng chẳng có nghĩa gì cả. Vì đối với những nhà vật lý như chúng
tôi, sự phân định giữa quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một ảo tưởng bướng
bỉnh, dai dẳng mà thôi.”
Đọc tiếp phần 2 tại đây
Đọc tiếp phần 2 tại đây
Đọc tiếp phần 3 tại đây
Tham gia thảo luận trên
Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment