Tháng Năm 2016 này, chúng ta
cùng mong chờ chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Hoa Kỳ Obama vốn đã được hai
nước thu xếp từ khá lâu. Đây cũng là thời điểm hệ trọng vì nó gắn với kỷ niệm
20 năm hai nước bình thường hóa quan hệ cũng như Việt Nam vừa tổ chức thành
công Đại hội Đảng cộng sản lần thứ 12.
Một chuyến đi như vậy có thể sẽ
làm thay đổi nhiều không chỉ quan hệ hai nước, mà còn tình hình quốc tế từ khu
vực đến bình diện rộng hơn, thậm chí chính sách của mỗi quốc gia cũng sẽ có những
thay đổi nhất định. Trong bài viết này, tôi muốn cùng độc giả xem xét vị thế của
Việt Nam trong khu vực, nhất là trong những mối quan hệ đặc biệt vừa truyền thống
lại vừa biến đổi không ngừng.
Nhắc đến quan hệ truyền thống
của Việt Nam (nhất là về quốc phòng) không thể không nhắc đến nước Nga, “người”
kế thừa và phát triển mối quan hệ đặc biệt tốt đẹp từ thời Liên Xô cũ. Từ sau
“sự kiện tan rã” năm 1991, nước Nga đi từ thời ốm yếu Eltsin đến thời của Tổng
thống Putin dần dần lấy lại được vị thế của một cường quốc có vũ khí hạt nhân
và thành viên của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, tiếng nói ngày càng có trọng
lượng trở lại trên trường quốc tế. Thế giới quen dần với các hội nghị G7+1,
G20+1… với sự tham gia đương nhiên của Nga. Về quốc phòng, Ủy ban Nga – NATO được
thành lập từ năm 2002, các cuộc tiếp xúc chính thức được tổ chức thường xuyên
tuy có gián đoạn từ tháng 4/2014 nhưng năm nay đã được nối lại.
Nga vẫn là nước chủ yếu cung cấp
cho Việt Nam vũ khí để bảo vệ đất nước, trong hoàn cảnh lệnh cấm vận vũ khí sát
thương từ phía Hoa Kỳ vẫn duy trì (mới chỉ được dỡ bỏ một phần năm 2014.) Với bề
dày phát triển, công nghệ vũ khí Nga vẫn luôn luôn là lựa chọn hàng đầu của
quân đội các nước, và chúng ta sẽ không thể không nhắc tới Trung Quốc, đang
thèm muốn rất nhiều công nghệ mà họ chưa thực sự làm chủ và không hề giấu diếm
tham vọng muốn trở thành một thế lực mới trên thế giới về quân sự.
Trong bối cảnh từ năm 1988
Trung Quốc bắt đầu gây sự trở lại ở Trường Sa với việc chiếm đảo Gạc Ma, rồi từ
đó thường xuyên gây tranh chấp và căng thẳng trong khu vực với các quốc gia
liên quan, toàn bộ các nước xung quanh biển Đông đều bị đặt vào tình thế phải
gia tăng sức mạnh quân sự. Năm 2014 Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương Thạch
Du 981 vào vùng đặc quyền kinh tế thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Từ đó
Trung Quốc không ngừng có các hành vi bồi đắp, tôn tạo các “đá” lúc nổi lúc
chìm, biến chúng thành đảo nhân tạo, xây các công trình quân sự, đường băng cho
máy bay… tức là quân sự hóa Trường Sa đã gây lo ngại không chỉ cho các nước
liên quan vùng Biển Đông, mà còn cả trên trường quốc tế.
Nước Nga với tư cách là đối
tác chiến lược rất quan trọng với cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, do đó chắc chắn
tiếng nói của họ cũng đầy sức nặng trước những vấn đề của Biển Đông. Hơn ai hết
từ trước đến nay Việt Nam cần Nga. Điều này chúng ta có thể chứng kiến nhiều
người Việt Nam bình thường thôi cũng mong Nga có “ý kiến” với Trung Quốc để Biển
Đông bớt dậy sóng.
Vậy Việt Nam mong muốn một nước
Nga như thế nào?
Thứ nhất, Việt Nam cần một nước
Nga mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự. “Sức mạnh quân sự” ở đây tôi muốn nói đến một
quân đội mạnh về công nghệ vũ khí và cả trình độ tác chiến tinh nhuệ, hiện đại.
Một nước Nga mạnh mẽ như vậy sẽ đóng góp tích cực cho sự bình ổn an ninh thế giới.
Như chúng ta thấy từ sự kiện 11/9 năm 2001 đến nay, thế giới đang đối mặt với
những kẻ thù mới, vô hình hơn, thiên biến vạn hóa hơn… đó là chủ nghĩa khủng bố.
Trước một kẻ thù như vậy, một mình nước Mỹ không đủ, thêm cả Liên minh Châu Âu
cũng không đủ để đối phó, và chính họ vẫn thường xuyên trở thành nạn nhân của
khủng bố. Một nước Nga mạnh mẽ đã tham gia tích cực các hoạt động cứu trợ nhân
đạo động đất, sóng thần ở nhiều nước…
Từ sau vụ sáp nhập bán đảo
Crimea đầu năm 2014 đến nay, “tác động kép” của lênh trừng phạt từ Phương Tây
áp đặt lên Nga kết hợp giá dầu mỏ thế giới giảm sâu liên tục trong khoảng hơn nửa
năm và duy trì ở mức thấp cả năm nay, làm cho nước Nga bị thiệt hại nặng nề.
Hơn thế nữa, ông Putin còn quyết định tham gia không kích lực lượng “Nhà nước Hồi
giáo” (ISIS) ở Syria, cũng là một chiến dịch tốn kém; chưa kể đến việc nước này
vẫn bị cho rằng đang dính líu vào xung đột quân sự ở Đông Ukraine…
Cho đến thời điểm đầu năm 2016
không ai rõ “túi tiền” của Putin lép đi là bao nhiêu, nhưng chắc chắn thiệt hại
là đáng kể. Về kinh tế, để có được sức mạnh trở lại nước Nga cần một giá dầu
cao, cũng như tính cạnh tranh của thị trường là vừa phải thôi; và điều đó hiện
nay là không thể vì công nghiệp dầu đá phiến của Hoa Kỳ tuy có khó khăn vì giá
thấp, nhưng với chính sách năng lượng của nước này có nhiều thay đổi, thì họ vẫn
trụ được. Thời gian vừa qua chúng ta còn chứng kiến việc Iran được dỡ bỏ cấm vận
và tham gia trở lại vào “chợ dầu mỏ,” cũng sẽ làm thị trường có thay đổi lớn. Hạ
tuần tháng Tư, hội nghị Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) được tổ chức –
mà không có sự tham gia của Bộ trưởng dầu mỏ Iran và trước đó nước này đã tuyên
bố không cắt giảm sản lượng dầu. Ngày 18/4 ngay khi hội nghị này kết thú mà
không có được thỏa thuận nào về giảm sản lượng dầu, giá dầu thế giới lập tức giảm
mạnh.
Không những thế, Nga đang tiếp
tục mất đi những khách hàng truyền thống, như một Châu Âu “làm mình làm mẩy” trước
khí đốt Nga và do cuộc chiến Syria, Nga biến Thổ Nhĩ Kỳ đang là bạn, quay ngoắt
180 độ thành kẻ thù.
Nga buộc phải quay sang phương
Đông, bắt tay với “con buôn” có tiếng là nguy hiểm: Trung Quốc. Dù khó khăn về
tài chính, tập đoàn dầu khí Gazprom của Nga vẫn phải bỏ tiền túi để đầu tư (từ
khoản vay từ ngân hàng Trung Quốc) để xây dựng đường ống khí đốt theo “Hợp đồng
khí đốt khủng” kéo dài 30 năm trị giá 400 tỷ đôla để bán khí đốt sang vùng Đông
Bắc Trung Quốc.
Về ngoại giao, Nga đã buộc phải
có thái độ có thể nói là rất ủng hộ Trung Quốc trong việc “chống quốc tế hóa giải
quyết tranh chấp Biển Đông,” thể hiện qua phát ngôn của Ngoại trưởng Lavrov gây
cực kỳ bất lợi cho các nước nhỏ khi “nói chuyện” với Trung Quốc để xử lý những
vấn đề do chính nước này gây ra ở Biển Đông.
Vậy thì bao giờ giá dầu thế giới
sẽ tăng cao trở lại? Chúng ta sẽ quay lại với câu hỏi này sau.
Thứ hai, Việt Nam sẽ có lợi với
một nước Trung Quốc yếu. Đúng là năm vừa qua chúng ta chứng kiến một nền kết quả
Trung Quốc chao đảo, tốc độ tăng trưởng giảm sút… “công xưởng của thế giới” vấp
phải một loạt những khó khăn thách thức, từ áp lực môi trường xuống cấp, hố
ngăn cách giầu nghèo ngày càng vừa rộng lại vừa sâu thêm, đất nước đang bước
vào thời kỳ “dân số già” và những bất cập của “chính sách một con” đã bộc lộ rất
nghiêm trọng… Tuy nhiên sức mạnh của quốc gia này vẫn là rất lớn sau một thời kỳ
phát triển nóng liên tục trong suốt hơn 40 năm, đây là điều không thể bị xem
thường. Tham vọng của Trung Quốc là sẽ trở thành một cực của một thế giới đa cực.
Trung Quốc trước tình trạng ô
nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, muốn thay đổi nguồn năng lượng của mình
từ chủ yếu dùng than sang dùng khí đốt. Hiện nay, đã có các dự án của Chính phủ trung ương
Trung Quốc đầu tư đến 1 tỷ đôla để thăm
dò và phát triển dầu khí từ đá phiến. Con số dự báo cho thấy Trung Quốc sẽ là một
thế lực mới trong lĩnh vực này với trữ lượng khoảng 31,6 nghìn tỷ mét khối, bằng
cả trữ lượng của Canada lẫn Hoa Kỳ gộp lại. Từ năm 2014, sản lượng dầu đá phiến
Trung Quốc được dự báo sẽ tăng gấp đôi vào năm 2020; từ 170 tỷ mét khối đến
trên 400 tỷ mét khối. Công ty BP còn dự báo dầu khí đá phiến có thể đáp ứng 22%
nhu cầu năng lượng của Trung Quốc vào năm 2030.)
Cái Trung Quốc đang thiếu là
công nghệ khai thác dầu đá phiến – ngoài BP, còn có thể kể đến các công ty khác
cũng rất nhiệt tình tham gia vào lĩnh vực đầy triển vọng này như Shell của Hà
Lan nay ConocoPhillips của Hoa Kỳ. Riêng hợp đồng với ConocoPhillips thì đáng
nhẽ ra đi vào hoạt động với bồn dầu Trường Thanh (Thiểm Tây) rồi, nhưng đó lại
là khu vực quân sự không cho phép liên doanh với đối tác nước ngoài nên dự án
phải chuyển sang một vị trí mới nên tiến độ có bị chậm lại.
Phát triển được dầu đá phiến
trong nước, Trung Quốc sẽ giảm được lượng than sử dụng để phát nhiệt điện đang
chiếm đến 70% tiêu thụ năng lượng của đất nước và đang bị cho là nguyên nhân
chính gây ô nhiễm không khí. Có dầu trong nước, Trung Quốc sẽ chủ động về dầu mỏ
mà không phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu nhiều từ bên ngoài như hiện nay nữa. Hiện
nay Trung Quốc đang nhập khẩu dầu từ nhiều nguồn, đáng kể nhất là nguồn Trung
Đông và phải vận chuyển bằng đường biển về qua… Biển Đông. Điều này giải thích
tại sao Trung Quốc ngoài việc nhòm ngó tiềm năng dầu khí Biển Đông, lại còn
quan tâm vùng biển này với tư cách là con đường huyết mạch cho năng lượng quốc
gia.
Chắc chắn trong thời gian tới,
Trung Quốc sẽ đẩy mạnh công nghiệp dầu đá phiến trong nước, chứ không thể đứng
yên – xu thế hiện nay thì việc tiếp cận
công nghệ là không quá khó, và với một nguồn lực ghê gớm về tiền mặt, thì Trung
Quốc sẽ nhanh chóng trở thành cường quốc dầu mỏ. Kết quả này là có thể nhìn thấy
được.
Nhưng nếu như vậy, thì chúng
ta cũng chạm tay được vào câu trả lời cho câu hỏi trên đây – “Bao giờ thì giá dầu
thế giới lại tăng cao trở lại?” Có lẽ sẽ còn lâu lâu nữa – và như vậy thì nước
Nga ít nhất trong vài năm tới sẽ không thể trông chờ vào giá dầu để phục hồi sức
mạnh kinh tế.
Thứ ba, trước tình hình dậy
sóng Biển Đông, Việt Nam sẽ cần một nước Mỹ có chính sách chống Nga vừa vừa
thôi, tốt nhất là thân thiện. Chính sách của Hoa Kỳ đối với Nga mà căng thẳng,
thì nước Nga sẽ có nhiều khó khăn. Những tác động của lệnh trừng phạt từ Phương
Tây (chủ yếu do Mỹ khởi xướng) đã làm cho nền kinh tế nước Nga rơi vào suy
thoái như thế nào chúng ta đã thấy: các công ty trong nước không được đáo hạn
khi đến hạn thanh toán các khoản nợ nước ngoài, không tiếp cận được các nguồn vốn
mới, không tiếp cận được các công nghệ tiên tiến để duy trì công nghiệp quốc
phòng vốn là thế mạnh của đất nước.
Một Hoa Kỳ với những chính
sách không thân thiện với nước Nga buộc Putin phải căng sức lên, thay vì có được
một thời gian hòa dịu để phát triển. Chiến dịch không kích của Nga ở Syria là một
minh chứng rõ ràng cho điều này: nguồn lực đang rất quý cho phục hồi sản xuất
và phát triển trở lại, lại phải dùng để nuôi chiến tranh.
Đáng tiếc là tình hình xấu đi
quá nhiều từ khi nước Nga sáp nhập bán đảo Crimea của Ukraine, và cuộc gặp gỡ
Nga – NATO ngày 20/4 vừa qua lại chưa tìm được tiếng nói chung cho tiến trình
hòa bình ở Đông Ukraine. Thậm chí không chỉ thế, mà một số lệnh trừng phạt được
đưa ra từ việc sáp nhập Crimea, nếu nói Nga trả lại là không tưởng thì không biết
đến bao giờ chúng (lệnh trừng phạt) sẽ được dỡ bỏ?
Thời đại của một nước dù mạnh
đến mấy có thể tự cô lập mình đã qua. Chính vì thế mà nước Nga phải có những
thay đổi về chiến lược địa chính trị của mình – và phải chăng thời kỳ của “quan
hệ nồng ấm Nga – Trung” đang bắt đầu?
Với đường lối “không liên kết
với nước này để chống nước khác,” từ tầm cỡ toàn cầu lẫn chỉ khu vực Biển Đông
Việt Nam vẫn luôn cần phải đa dạng hóa, đa phương hóa kể cả về hợp tác quốc
phòng. Chính vì thế mà trong các chuyến thăm Hoa Kỳ của lãnh đạo Việt Nam thời
gian gần đây đều đề cập vấn đề nước này dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí. Đa dạng hóa nguồn
cung, tìm đến những nguồn lực tài chính tín dụng mới cho mua sắm vũ khí cũng là
một phương án tốt để tăng cường tiềm lực quốc phòng bảo vệ đất nước.
Chuyến thăm của tổng thống Hoa
Kỳ Barrack Obama nhằm vào lúc cuối nhiệm kỳ của ông, ông chỉ còn ngồi ở ghế tổng
thống chưa đầy một năm nữa. Trong nhiệm kỳ của mình, ông đã làm cho quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ những điều rất quan trọng, như xác lập “Quan hệ Đối tác toàn diện”
(2013), thúc đẩy Việt Nam gia nhập TPP… Liệu trong lần sang thăm này, dỡ bỏ lệnh
cấm vận vũ khí có phải là “món quà” ông Obama sẽ đem đến cho Việt Nam?
Bài trên Soha tại đây
Tham gia thảo luận trên
Facbook tại đây
No comments:
Post a Comment