Tàu chở tên lửa của Liên Xô tới Cuba - 1962. Ảnh: Getty |
Thất bại của
“Liên minh vì tiến bộ”
Không thể mất
uy tín thêm nữa, cùng thất bại “Sự kiện Vịnh Con Lợn”, Kennedy cảm thấy cần
thay đổi chính sách nhằm ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản ở Mỹ -
Latinh. Hoa Kỳ chủ trì hai Hội nghị Liên Mỹ họp ở Punta Del Este (Uruguay.) Tại
hội nghị lần thứ nhất (8/1961), Hoa Kỳ hứa hẹn hàng năm sẽ có khoản viện trợ
Nhà nước khổng lồ là 1 tỷ đôla cho các nước Mỹ - Latinh, và hy vọng sẽ thu hút
thêm được 1 tỷ đôla nữa trong lĩnh vực đầu tư tư bản. Hệ thống viện trợ tập thể
này sẽ được đặt tên là “Liên minh vì tiến bộ.” Kế hoạch gặp khó khăn vì ngân
sách bị Quốc hội Hoa Kỳ cắt giảm, cũng như giới tài phiệt Hoa Kỳ còn nghi ngại
các nước Mỹ - Latinh. Tại Hội nghị lần thứ hai vào tháng 1/1962, tân ngoại trưởng
Hoa Kỳ Dean Rusk còn đề nghị khai trừ Cuba ra khỏi “Tổ chức các quốc gia châu Mỹ”
vì lý do ở Cuba nay đã tồn tại một Chính phủ độc tài và chế độ của Cuba không
phù hợp với các thể chế dân chủ của tổ chức. Đề nghị này đã vấp phải phiếu chống
của những nước Mỹ - Latinh lớn nhất: Arhentina, Brazil, Chile và Mexico.
Vì hành động
này của Hoa Kỳ, Fidel Castro đã kêu gọi toàn thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc
Mỹ. Quan hệ Cuba – Liên Xô được tăng cường về mọi mặt để phần nào giảm bớt khó
khăn cho Cuba do bao vây kinh tế của Mỹ.
Kennedy và học
thuyết Monroe. Vai trò của Liên Xô ngày càng tăng
Kennedy và
Chính phủ của ông rất do dự trước tình hình Cuba. Họ luôn tin rằng muốn lật đổ
chế độ Cuba Cách mạng, chỉ bằng một cuộc xâm lược quân sự - việc này sẽ dẫn đến
đối đầu Liên Xô, vì Liên Xô đã cam kết bảo vệ Cuba. Nếu hậu thuẫn lật đổ, thì
cũng sẽ dẫn đến kết quả tương tự. Mùa hè năm 1962, ở Hoa Kỳ người ta tiến hành
thăm dò ý kiến dân chúng, và kết quả cho thấy 61% số người được hỏi ý kiến cho
rằng nếu đánh Cuba bằng quân sự, thì sẽ có chiến tranh với Liên Xô; 69% người
được hỏi không ủng hộ cuộc can thiệp quân sự như vậy.
Do đó, biện
pháp chống Cuba của Kennedy mới chỉ dừng ở mức cấm vận hàng hóa vào Cuba, chứ
chưa đến mức phong tỏa Cuba, hành động được coi là chiến tranh và nếu vậy thì vẫn
có khả năng đối đầu quân sự với Liên Xô [1].
Chính sách của
Hoa Kỳ vẫn tiếp tục trung thành với “Học thuyết Monroe” – chống sự can thiệp của
nước châu Âu, nay mở rộng thành các nước “không Mỹ” vào nước Mỹ [2]. Quốc hội
Hoa Kỳ còn quyết nghị nếu cần sẽ sử dụng vũ lực để ngăn chặn bất cứ hành động
xâm lược hoặc lật đổ nào ở Tây bán cầu. Báo chí Mỹ liên tục đăng tải những bài
viết rất thù địch chống Cuba. Hoa Kỳ thường xuyên cho máy bay U2 bay do thám
trên vùng trời Cuba, gọi thêm 150.000 quân dự bị và cho phép những người Cuba
lưu vong được gia nhập quân đội Hoa Kỳ, tất cả đều làm căng thẳng thêm tình
hình.
Tình hình
ngày càng căng thẳng đẩy Cuba vào tình thế phải tìm kiếm một liên minh khăng khít
hơn nữa, nhất là về quân sự. Mùa hè năm 1962, Raoul Castro cùng Che Guevara
sang Moscow, yêu cầu “Liên Xô cần có hỗ trợ hơn nữa để bảo vệ Cuba trước sự xâm
lược của Đế quốc Mỹ.” Đề nghị này nhận được sự đồng ý của Tổng bí thư Đảng cộng
sản Liên Xô, Nikita Khrushchev.
Trang thiết bị,
khí tài, vũ khí và chuyên gia quân sự Liên Xô bắt đầu có mặt ở Cuba, xây dựng
các căn cứ quân sự (tên lửa) ở đây và dẫn dắt chúng ta vào một sự kiện mới:
Cuộc “Khủng
hoảng tên lửa Cuba.”
Vào ngày
2/9/1962, hai nước đã ra thông cáo chung Liên Xô – Cuba với nội dung rằng “Liên
Xô sẽ cung cấp vũ khí và huấn luyện quân sự cho Cuba”, nhưng không hàm ý có vũ
khí có thể tấn công Hoa Kỳ. Ngày 6/9/1962, Nikita Khrushchev phát biểu “trước
cuộc tổng tuyển cử của Hoa Kỳ, sẽ không tiến hành bất cứ điều gì có thể làm cho
tình hình quốc tế trở nên phức tạp hơn và làm cho quan hệ giữa hai nước chúng
ta (Liên Xô và Hoa Kỳ) trở nên căng thẳng hơn.” Mối đe dọa nước Mỹ sẽ bị tấn
công, là chưa rõ ràng.
Ngày
14/10/1962, một máy bay U2 tiến hành cuộc hành trình bay do thám. Hai ngày sau,
tổng thống Kennedy được báo cáo về việc có dàn phóng tên lửa được xây dựng trên
đất Cuba. Ngày 22/10 là “dead line” của Kennedy phải quyết định cho dân chúng
Hoa Kỳ biết những gì đang diễn ra trên đất nước Cuba, và ông ta đã rất căng thẳng.
Câu hỏi đặt ra là Liên Xô muốn gì? Phải chăng Liên Xô muốn buộc Hoa Kỳ phải can
thiệp vào tình hình Cuba để “giăng một cái bẫy” làm cho dư luận toàn thế giới
chống lại Hoa Kỳ? Phải chăng Liên Xô muốn đẩy Hoa Kỳ vào tình thế muốn Liên Xô
rút tên lửa, phải ngồi vào bàn và tiến hành một cuộc “mặc cả toàn cầu”, như Hoa
Kỳ phải rút tên lửa ở Thổ Nhĩ Kỳ hay vài nhân nhượng khác ở Tây Berlin? Hay đơn
thuần chỉ là “đòn gió” thăm dò khả năng phản ứng của Hoa Kỳ?
Sau thất bại Vịnh
Con Lợn, Kennedy bị dồn vào chân tường: buộc phải hành động, nhưng không được
phép sai lầm. “Hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ” đã được nhóm họp gồm có Tổng
thống John F. Kennedy, ngoại trưởng Dean Rusk, thứ trưởng ngoại giao George
Ball, Bộ trưởng quốc phòng McNamara và trợ lý của ông Paul Nitze, Chủ tịch Hội
đồng các tham mưu trưởng liên quân tướng Maxwell Taylor, giám đốc CIA George
McCone, Bộ trưởng tư pháp Robert Kennedy, bộ trưởng tài chính Douglas Dillon,
các cố vấn Nhà Trắng Theodore Sorensen và McGeorge Bundy…
Fidel và Khrushchev - Moscow 1963 |
Trước mắt họ
có các lựa chọn. (1) Tấn công Cuba, tiêu diệt các tên lửa Liên Xô triển khai
trên lãnh thổ Cuba, đồng nghĩa với chiến tranh. (2) Dùng máy bay ném bom tiêu
diệt tên lửa Liên Xô – một kế hoạch đầy rủi ro vì có thể nó không đạt được kết
quả như mong muốn, hơn thế nữa ý tưởng này vấp phải sự phản đối của Robert
Kennedy và George Ball. (3) Tổ chức phong tỏa cục bộ xung quanh Cuba ngăn không
cho Liên Xô đưa vũ khí nguyên tử vào Cuba và đồng thời, đưa cho Liên Xô “tối hậu
thư” để Liên Xô từ bỏ kế hoạch xây dựng dàn phóng tên lửa mang đầu đạn hạt nhân
ở Cuba.
Về kế hoạch
thứ ba này, Hoa Kỳ có đầy đủ năng lực thực hiện: sức mạnh hải quân Hoa Kỳ ở
vùng biển Caribe là “khỏi phải bàn”, lại nằm xung quanh khu vực, nhất là con đường
hàng hải từ Liên Xô đến Cuba. Nếu tiến hành kế hoạch này, thì “đá được quả bóng
sang sân của Liên Xô”, nghĩa là quyết định như thế nào, đều phụ thuộc vào phía
Liên Xô cả: có tiếp tục cho các tàu chở hàng (có tàu ngầm hộ tống) đi tiếp hay
không, hoặc thậm chí “liều” cho Hoa Kỳ khám tàu. Đây là một kế hoạch thụ động,
nhưng lại có khả năng thành công lớn.
Cũng trong
ngày 22/10, tổng thống Kennedy còn tham khảo thêm ý kiến của các cựu tổng thống
Hoover, Truman và Eisenhower. Vào lúc 19 giờ cùng ngày, tổng thống Hoa Kỳ
Kennedy đã đọc một bài diễn văn rất quan trọng trên truyền hình: “Như đã hứa,
Chính phủ ta đã giám sát một cách chặt chẽ nhất các hoạt động quân sự của Liên
Xô trên đảo Cuba. Tuần qua, đã có các chứng cớ không thể bác bỏ được chứng tỏ một
loạt bệ phóng tên lửa tấn công đã được xây dựng trên hòn đảo tù túng đó. Mục
đích của căn cứ này chỉ có thể nhằm tạo ra một lực lượng quân sự chống lại Tây
bán cầu. Việc nhanh chóng biến Cuba thành một căn cứ chiến lược quan trọng
thông qua sự có mặt của những vũ khí lớn tầm xa và rõ ràng có sức công phá mạnh
nhằm hủy diệt hàng loạt là một sự đe dọa trắng trợn đối với hòa bình và an ninh
của toàn bộ Châu Mỹ. Quyết định bí mật và bất ngờ đặt vũ khí chiến lược lần đầu
tiên ở ngoài lãnh thổ Liên Xô là một sự thay đổi nguyên trạng, cố tình khiêu
khích và vô căn cứ mà đất nước chúng ta không thể chấp nhận nếu trong tương lai
chúng ta muốn rằng lòng dũng cảm và những cam kết của chúng ta vẫn còn được các
bạn bè và kẻ thù coi là đáng tin cậy… Chúng ta sẽ không vội vàng liều lĩnh một
cách không cần thiết với nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới mà chiến thắng sẽ
là tro bụi…, nhưng chúng ta cũng sẽ không lùi bước trước nguy cơ đó vào bất cứ
lúc nào cần đối phó.”
Kennedy trước
hết thông báo cho dân chúng Mỹ, sau đó là các đồng minh và trao tối hậu thư cho
Chính phủ Liên Xô. Các chứng cớ về tên lửa Liên Xô triển khai ở Cuba được công
bố trên toàn thế giới. Quyết định này của Hoa Kỳ nhận được sự ủng hộ của thủ tướng
Anh Maurice Harold Macmillan (10/2/1894 – 29/12/1986) và tổng thống Cộng hòa
Pháp Charles De Gaulle (22/11/1890 – 9/11/1970) cũng tán thành. Khi được thăm
dò ý kiến, 84% người dân Hoa Kỳ được hỏi ủng hộ quyết định này và chỉ có 4% cho
ý kiến phản đối.
Liên Xô phản ứng
như thế nào?
Trước đây khi
trả lời câu nói của Mao Trạch Đông “đế quốc Mỹ là con hổ giấy”, Khrushchev đã
trả lời: “Nhưng mà con hổ giấy ấy nó có răng nguyên tử.” Hơn ai hết, Nikita ý
thức được rất rõ khả năng chiến tranh thế giới lần thứ ba và hậu quả khủng khiếp
của nó. Vấn đề là xử lý tình hình như thế nào mà thôi – không căng lên, và hòa
dịu đi một cách êm thấm cho cả hai phía. Tổng bí thư ĐCS Liên Xô đã có trao đổi
thư từ trực tiếp với Tổng thống Hoa Kỳ và họ đã tìm được tiếng nói chung. Liên
Xô đầu tiên cho các tàu hàng quay trở lại để tránh va chạm với tàu chiến Mỹ. Thỏa
thuận của hai siêu cường là Liên Xô sẽ rút các tên lửa đã triển khai ở Cuba dưới
sự kiểm soát của các quan sát viên Liên hiệp quốc, cam kết sẽ không đưa chúng
quay trở lại. Ngược lại, Hoa Kỳ cũng phải cam kết sẽ không dùng vũ lực với Cuba.
Nếu thực hiện được như vậy, thì rõ ràng Liên Xô “đã triển khai tên lửa để bảo vệ
nước Cuba nhỏ bé khỏi sự tấn công của Hoa Kỳ” chứ không có ý định tấn công Hoa
Kỳ. Hai nhà lãnh đạo siêu cường nhanh chóng tìm được tiếng nói chung – Kennedy
cũng đồng ý với Khrushchev về phương án như vậy.
Cho rằng bị đẩy
vào tình thế “các nước lớn thảo luận về nước nhỏ không thông qua nước nhỏ,”
Fidel Castro phản ứng khá dữ. Ông không đồng ý với thỏa thuận của Khrushchev với
Kennedy và đưa ra yêu sách 5 điểm:
1. Chấm dứt
phong tỏa kinh tế.
2. Chấm dứt
các hoạt động lật đổ bằng quân nhảy dù và bằng tàu vận chuyển vũ khí, chấm dứt
các hoạt động gián điệp và phá hoại đối với Cuba.
3. Chấm dứt
các cuộc tiến công kẻ cướp bằng máy bay xuất phát từ Hoa Kỳ.
4. Chấm dứt
việc cho máy bay xâm phạm không phận Cuba.
5. Hoa Kỳ rút
quân khỏi căn cứ hải quân Guantanamo.
Hoa Kỳ thì
đương nhiên không đồng ý với bản yêu sách này, do đó tình hình lại trở nên bế tắc,
gây khó xử cho Liên Xô vì khó khăn đến từ phía đồng minh. Ngày 19/11, Phó chủ tịch
thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Anastas Ivanovich Mikoyan (25/11/1895 –
21/10/1978) tới Cuba, và sau 11 ngày bàn thảo với Fidel, cuối cùng họ đã đạt được
sự đồng ý của phía Cuba cho tháo dỡ các dàn tên lửa đã lắp đặt tại Cuba và chở
về bằng máy bay, nhưng không chấp thuận cho các quan sát viên Liên Hiệp Quốc
vào giám sát.
Trước tình
hình đó, Hoa Kỳ tuyên bố rút lời hứa không tấn công Cuba và tiến hành giám sát
việc Liên Xô rút tên lửa về bằng không quân. Chỉ đến ngày cuối cùng trong chuyến
công tác của Mikoyan, Cuba mới đồng ý cho quan sát viên Liên hiệp quốc vào giám
sát tại chỗ, nhưng Hoa Kỳ vẫn không đưa lời hứa trước đây quay trở lại, tuy
nhiên vẫn có những hành động hàm ý họ sẽ không tấn công Cuba. Hành động này của
Cuba đã làm cho quan hệ Cuba – Liên Xô không còn được mỹ mãn như lúc ban đầu.
______________
Theo các tài liệu:
“Lịch sử quan hệ ngoại giao từ 1919 đến nay” – Jean Baptiste Duroselle, những người dịch Lưu Đoàn Huynh, Quách Ngọc Bảo; bản xuất bản của Học viện Quan hệ quốc tế (nay là học viện Ngoại giao), 1994. Có tham khảo thêm bản pdf “Histoire diplomatique de 1919 à nos jours” Paris, Dalloz, 1974, 871 trang.
“Quan hệ Cuba – Hoa Kỳ” – BBC bản tiếng Anh (“US-Cuba relations”) 11/10/2012
[1] Phong tỏa là cho tàu chiến ngăn các tàu hàng, thương mại… vào cảng Cuba.
[2] “The Monroe Doctrine” được đưa ra vào năm 1823 bởi tổng thống Hoa Kỳ James Monroe.
(Hết phần 2)
Xem lại phần 1 tại đây
Đọc tiếp phần 3 tại đây
Bài trên "Tuần Việt Nam" bút danh (Phúc Lai) tại đây
Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment