Một Thày giáo, giảng viên Đại học chia sẻ bài viết về "Thượng Đế, Phật-Chúa, Thần
Thánh, Con Người Và Khoa Học", xin có đôi dòng cảm nhận về bài viết này.
1. Lòng tin. Đức
Phật (ở đây xin được hiểu là Đức Phật Thích Ca Mầu Ni, lịch sử xin đọc Thái tử
Tất Đạt Đa) không yêu cầu đệ tử của Ngài phải ngay lập tức phải tin Ngài, và
cũng không bắt buộc phải tin. Ngài muốn những người con của Ngài khi nào ngộ ra
được thì hẵng tin, ngộ đến đâu, tin đến đó. Nhưng với những người theo Phật, có
được lòng tin là một phước đức lớn. Những người phước đức mỏng hoặc thậm chí
không có, thường không có lòng tin, hay đặt vấn đề nghi ngờ điều này, điều
khác.
Do đó với Đạo
Phật, niềm tin là cực kỳ quan trọng, nhưng lại không bắt buộc, khác với các Tôn
giáo khác, bắt buộc các tín đồ của mình phải tin vào Giáo chủ của mình một cách
tuyệt đối đến mức hà khắc, khắc nghiệt, thậm chí sử dụng bạo lực với những trường
hợp báng bổ hệ thống thánh thần, trong lịch sử đã từng có Tòa án Giáo hội để
xét xử những người dám đi ngược lại đức tin. Đạo Phật không có điều đó. Do đó với
Đạo Phật, lòng tin được biểu hiện ở sự Giác Ngộ, một lòng tin tự giác, không cần
bắt buộc, và do đó lòng tin đó là vững bền, xuất phát từ sự hiểu biết. Với những
người đã có lòng tin rồi còn lạc lối, cũng là bình thường, tùy thuộc vào phúc đức
của người đó và khả năng tự tu học để tái giác ngộ, trở lại con đường sáng hay
không.
2. “Thượng Đế”
“Phật – Chúa – Giáo Chủ” “Thánh thần” “Con người”. Chúng ta thường nghe “Đức Phật Thích Ca
Mầu Ni – Ta bà Giáo Chủ”. Như vậy Đạo Phật thừa nhận có cuộc sống khác ngoài thế
giới vật chất chúng ta đang sống, và trải quan luân hồi vô lượng kiếp, mỗi người
trong số chúng ta cũng có thể đã trải qua những dạng cuộc sống khác nhau và
trong tương lai cũng hoàn toàn có thể lặp lại như vậy – tùy thuộc “nghiệp lực”
khác nhau của mỗi người. Như vậy chúng ta phải hiểu là ngoài cõi thế giới vật
chất này, mà người ta thường gọi là “cõi Ta Bà”, nơi sinh sống của loài người,
là một hạt cát trong vũ trụ có thể có nhiều thế giới khác, nhiều cõi khác. “Thượng
Đế” theo Phật học, là Đức vua ở một cõi, cõi thần tiên, và cõi đó vẫn là cõi dục,
nghĩa là “Thượng Đế” (Ngọc Hoàng) và các thần tiên, cũng vẫn ở cõi dục, là một
cõi rất thấp so với các cõi khác của Phật (Phật nói chung, có nhiều Đức Phật),
như Nirvana “Niết Bàn” chẳng hạn.
Trích Wiki tiếng Việt: “Thực ra trong Phật Pháp, không có thượng đế, mà cũng không có nói thượng
đế là người tạo hóa, Phạm Thiên Vương chỉ là một trong các vị thiên vương (ông
trời) ở trên các tầng trời, do công đức tu hành cao nên khi hết một báo thân,
chúng sanh đó được sanh lên các tầng trời theo nghiệp báo của họ, nhưng vẫn
chưa thoát ra khỏi vòng sinh tử.Phạm Thiên Vương là vua cảnh trời Đại Phạm,
Ngài có quyền luôn ở ba cõi: Phạm thân Thiên, Phạm chúng Thiên, Phạm phụ Thiên.
Ngài cai quản Tam thiên đại thiên thế giới tức cõi Ta bà nầy (rộng tới 1 tỷ tỷ
thế giới, 1 thế giới bằng 1 hệ ngân hà hoặc lớn hơn)(cõi Ta bà chi là khu hóa độ
chúng sanh của Phật Thích Ca, mỗi một vị Phật đều có khu hóa độ riêng)…”
Do đó trong
bài viết này, người viết hiểu “Thượng Đế” đặt trước, “Phật – Chúa – Giáo Chủ” là
người viết đang tập trung vào hiểu Phật là Đức Thích Ca Mầu Ni – Ta Bà Giáo Chủ.
Đức Phật như chúng ta đã biết, từ cõi Phật đến cõi Ta Bà của chúng ta, thị hiện
thành người bằng xương bằng thịt, bắt đầu từ thái tử Tất Đạt Đa rồi trải qua
các bước tu hành, chứng ngộ mà trở thành người Thày của nhân loại, rồi Ngài đản
sanh về lại cõi Niết Bàn. Mạch tư duy của người viết mới chỉ tập trung vào Đức
Phật Thích Ca Mầu Ni của thời đại chúng ta, con người hiện đại (vài nghìn năm
trước Công nguyên đến nay), và đặt Đức Phật này dưới “Thượng Đế” là có lý.
Nhưng so với nguồn gốc nơi đến và nơi đi của Đức Phật, như thế là chưa đủ, nếu
như không muốn nói là không đúng.
Đạo Phật
không thừa nhận có đấng sáng thế, tức là “Chúa Trời người tạo ra muôn loài,
muôn vật”, mọi sự vật hiện tượng, mỗi chúng sinh trong luân hồi là không có điểm
khởi đầu và kết thúc, vô thủy vô chung, nghĩa là việc chúng ta sinh ra trên cõi
Ta Bà này là do “nhân quả, luân hồi, nghiệp báo” quyết định. “Ta Bà” là cõi khổ,
nhưng được làm thân người ở cõi Ta Bà là phúc cực lớn vì chỉ có con người mới
có thể tu lên thành Phật. Đạo Phật do không thừa nhận Đấng Sáng Thế, nên là đạo
“vô thần”, không phải thừa nhận “có thánh thần” là có thần. Vẫn là “vô thần”. “Thánh
thần” với Đạo Phật, cũng chỉ là những chúng sinh ở những cõi khác, có nghiệp lực
khác mà thôi.
Các Tôn Giáo khác
có thừa nhận Đấng Sáng Thế hay không, mình không rõ không dám lạm bàn, nhưng nếu
có, thì là đạo có thần. Như Đạo Hồi, Đức Allah nghĩa là “Thượng Đế”, “Đấng Sáng
Thế” – thì Đạo Hồi là Đạo có thần, theo đó chúng ta được tạo ra do Thượng Đế.
Do đó đặt “Phật
- Chúa” cùng một phạm trù, thì có thể chỉ phù hợp với người đọc lịch sử loài
người: Đọc sử Đức Phật Thích Ca Mầu Ni 2500 trước Công nguyên, rồi đến Công
Nguyên là lịch sử Chúa Jesus… nghĩa là bó hẹp trong những gì con người nhận thức
được theo những phương pháp thông thường mà con người hiện đang gọi là “khoa học.”
Người học Phật sẽ biết có nhiều Đức Phật. Ví dụ: Đức Phật A-di-đà (Đức Phật của
Quá Khứ) hay Đức Phật Di Lặc (Đức Phật của Tương Lai)…
Về “Thần
thánh”, người viết có lý khi viết “Đó là những năng lượng cao trung gian, ít
nhiều tùy không gian, thời gian có ảnh hưởng đến quần chúng. Thần Thánh tồn tại
trong tương tác với quần chúng, chịu ảnh hưởng nhiều của quần chúng, mang rất
nhiều đức tính của Quần Chúng. Khác với Thượng Đế đòi hỏi mỗi con người phải
vươn lên, tu luyện thắng chính những cái xấu buông bỏ cho tinh khiết, Phật-Chúa
dễ hơn nhưng cũng bắt đòi hỏi con người tu thân (Quay đầu là Bờ - Bờ chính là
không gian trong Tâm mình, An trú ở đó), Thần Thánh nặng về lễ bái, cầu xin,
liên quan nhiều đến tâm lý sợ hãi của con người, của tâm lý đám đông.”
Đúng vậy, “Thần
thánh” như trên mình hiểu và trình bày, là chúng sinh ở những cõi khác, do đó
có thể không chỉ là dạng “năng lượng cao trung gian” mà có thể ở những dạng vật
chất đặc biệt, như dạng sóng, dạng hạt, (phôtôn chẳng hạn…) mà con người bằng
giác quan và cả các thiết bị của mình, chưa nhận thức được hoặc chưa nhận thức
được đầy đủ. Một số cá nhân có thể nhận thức được ở một mức độ nào đó, thông
qua những năng lực đặc biệt (“thần thông”), và khi họ kể lại, tường thuật lại bằng
lời nói, thì được xây dựng lên có thêu dệt, thành hệ thống truyền thuyết về “Thần
thánh.” Những người có “thần thông”, thường thu thập lòng tin của công chúng bằng
việc nói trước được tương lai hoặc nói ra những điều chôn giấu trong quá khứ của
người khác… và quần chúng tin vào những người đó, ít nhiều là những người “mê
tín.” Người hiểu biết không phủ nhận “thần thông”, nhưng không bám vào đó để
xây dựng lòng tin cho mình.
Những gì mình
viết trong phần này cũng liên quan đến “con người” nên phần cuối, khi người viết
viết về “con người” mình sẽ không đề cập lại nữa.
3. Người viết
viết về “Tứ diệu đế” và “Bát chánh đạo”, băn khoăn không biết nên chọn con đường
nào trong 8 con đường. Cuối cùng người viết kết luận “Câu trả lời của tôi là
Thiền Đạo và nên hiểu Bát Chánh Đạo = Thất Chánh Đạo + Thiền Đạo”. Không rõ “Thiền
Đạo” của người viết có phải là “Chánh Định” trong “Bát chánh Đạo” hay không,
nhưng mọi pháp tu của Đạo Phật đều phải đi vào “định”. Còn nếu cho rằng phải chọn
một trong 8 con đường thì không hẳn thế, như đi từ Hà Nội vào Sài Gòn theo đường
quốc lộ 1A thì bắt buộc phải qua thành phố Vinh rồi qua Huế, Đà Nẵng, Nha Trang…
nên hiểu là tám phương tiện đưa hành giả đến an lạc, giải thoát. Do đó người
hành giả phải sử dụng cả tám phương tiện đó, phải đi qua tất cả những “mốc” đó:
Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn,
Chánh niệm và Chánh định.
4. Người viết khá
băn khoăn khi hệ thống kinh sách của Đạo Phật khá “mờ” (mù mờ?), “Càng mờ lại
coi là càng uyên thâm”, và lo lắng rằng hệ thống kinh điển này bị con người làm
méo mó đi nhiều. Điều này dường như là đúng, vì quá nhiều kinh sách thật. Thời
Mạt Pháp, người học thì nhiều, người hành thì ít, người đọc được vài chữ thì
hay giảng pháp, thậm chí viết sách mà quên đi cái sự tu hành vào bản thân mình.
Nhưng chúng ta suýt quên Đạo Phật có 84 ngàn pháp môn, chẳng nhẽ Đức Phật dạy lắm
nhiều phép tu đến thế? Không phải, Đức Phật tùy duyên, tùy căn cơ mà nói pháp,
nên có nhiều đối tượng nghe giảng thì cũng phải có nhiều phương pháp đặt vấn đề,
tiếp cận và giải quyết vấn đề. Trải qua 2500 năm nhiều người giải thích, nhiều
người viết sách thì thành ra nhiều thôi. Với người theo Phật hiểu biết, chỉ có
một pháp môn duy nhất là “pháp môn giải thoát.”
Do đó người
viết rất sáng suốt khi đưa ra lời khuyên “Hãy chọn lấy phần tinh khiết của Phật
giáo Nguyên Thủy ít chịu ảnh hưởng của đám đông hơn, ít bị chi phối bởi Đời, xã
hội.” – đúng, lúc đầu chưa hiểu nhiều thì đọc sách của Thày này, người khác giải
thích; nhưng đã hiểu nhiều nhiều rồi thì nên đọc Kinh Nguyên Thủy.
5. Khoa học.
Tác giả viết “Con người để đi xa hơn nữa trên con đường nhận thức thế giới
khách quan cũng đã nhận ra rằng những công cụ tư duy Logic của khoa học truyền
thống hai chiều, những phép đo liên quan đến các giác quan có những hạn chế ..,
cần được bổ xung bởi những linh cảm, kỳ diệu, vô hình, đa chiều.”
Chúng ta nhận
thấy tác giả với tư cách là đại diện của nền khoa học thực chứng (xây dựng lý
thuyết trên những phép đo và những kết quả chứng minh thực tiễn) cũng đã nhận
thấy cái “limit” của nhận thức con người trước cái vô hạn của vũ trụ. Vậy thì
chẳng nhẽ con người không thể nhận thức được vũ trụ chăng? Sai rồi, con người
hoàn toàn có thể nhận thức được vũ trụ. Con người xây dựng được “logic học”,
khoa học của tư duy, nhưng điều này Đức Phật dạy lâu rồi. Phật pháp trang bị
cho chúng ta phương pháp tư duy “biện chứng và khách quan”, chỉ cần thế là đủ.
Và nếu như giác ngộ, đạt thành tựu mà tu thành Phật, chính là con đường nhận thức
vũ trụ của con người.
Sau đây là toàn văn bài viết:
Thượng Đế, Phật-Chúa,
Thần Thánh, Con Người Và Khoa Học
=============================================
Với lòng tin
ta sống dễ dàng hơn
Và ra đi cũng
nhẹ nhàng hơn
(thơ
Szimborska)
Lùi ra xa để
không bị bẫy của cảm xúc, để không bị che mắt bởi những cái nhỏ và rồi để mọi
thứ trở nên sáng, đơn giản.
Thượng Đế
--------------
Trong Yoga
Thượng Đế thực chất đó là sự tinh khiết, không có hình hài con người với năng
lượng và dải tần vô biên, là thực thể Tuyệt Đối duy nhất mà ta gọi là "Đại
ngã", linh hồn bất tử tối cao ... Thế giới đang vận động chỉ là những bộc
lộ khác nhau của một thực tại bất biến, của một tự tính bất sinh bất diệt. Con
người cũng là một dạng xuất hiện của thực tại đó. Bản thể của mọi sự vật còn được
Lão Tử gọi nó là Đạo. Có thể coi đó là ngọn lửa vô biên không tắt mà con người
là một ngọn lửa nhỏ lấy từ đấy.
Thượng Đế là
một giả thuyết được định nghĩa, Tuyệt đối duy nhất, bất biến. Nếu Tin (Đức Tin ở
Thượng Đế và Lòng Tin ở chính Mình) sẽ có Cái Được một điểm tựa để sống dễ dàng
hơn và ra đi cũng nhẹ nhàng hơn, là một cách. đơn giản nhất để sống mạnh mẽ và
bình an nhưng cũng là khó nhất vì phải vượt chính mình. Cái Mất thực ra là
không có.
Phật – Chúa –
Giáo Chủ
------------------------------
Về mục đich.
Họ là những người vĩ đại, những linh hồn vĩ đại. Họ khác nhau nên cũng Giác ngộ
khác nhau, có những Con đường đi khác nhau nhưng. Nhưng tất cả đều có Điểm giống
nhau là yêu thương con người, cứu vớt con người. Cái Đích Thiện đó là điểm
chung của mọi Đạo trên thế gian này.
Về con đường.
Chúng ta thử tìm điểm chung, giao của các Đạo, bắt đầu từ Phật (Giác Ngộ). Ở
đây chúng ta nên dừng lại trước triết lý Tứ diệu đế (Bốn cái là nguyên nhân đau
khổ của con người) và công cụ giải quyết nó là Bát chánh đạo (Tám con đường thực
hành dẫn luyện). Những người giảng đạo Phật không đặt câu hỏi nếu chỉ chọn một
thì Đạo nào trong số Tám cái đó.
Câu trả lời của
tôi là Thiền Đạo và nên hiểu
Bát Chánh Đạo
= Thất Chánh Đạo + Thiền Đạo
vì lý do:
Thiền là
chung cho tất cả các tôn giáo (với Ý Niệm duy nhất mãnh liệt con người buông bỏ
không chấp cái thế giới bên ngòai, không đổ tại bên ngòai, ngoại cảnh, cắt bỏ
quá khứ, tương lai, chìm sâu trong hiện tại để trở về với thế giới nội tâm của
riêng mình-chờ đón một hiệu ứng kỳ diệu tâm linh). Đức Phật cũng Thiền, Đạo
Lão, Đạo Khổng, Yoga cũng Thiền, Đạo Cơ Đốc, Đạo Hồi cũng vậy.
Đó là phần
giao của những Tập hợp khác nhau. Không thể nói là sai (Chân lý) Cái mà những
Ngài khác nhau đó độc lập nói giống nhau. Đó chính là Tĩnh Tâm, Nhất Niệm (đơn
giản là Tụng Niệm) hàng ngày, là Thiền Định. Đó là phương pháp chung của mọi Đạo
trên thế gian này.
Do sự phát
triển liên quan đến đám đông, dễ bị bầy đàn ảnh hưởng theo kiểu Trần sao Âm thế,
suy từ Đời ra Đạo, từ Bùn ra Hoa Sen, các đạo giáo ít nhiều bị ảnh hưởng. Thay
vì phải giữ được gốc (bất biến) là phần Cứng của Đạo, chỉ phần kết nối với Đời
là linh hoạt Mềm (vạn biến) thôi, nhiều Đạo đã lại tự mềm hóa, Đời hóa, biến dạng
ra các nhánh, cành tùy theo môi trường sống để Đạo có nhiều người theo hơn. Đạo
Phật với tính chất bao dung nên có nhiều biến thể nhất, nhiều Phật, nhiều kinh
và để hợp lý điều đó đã coi là sự vật không có hai mặt, mà trên nó, tất cả những
phương pháp nhị nguyên để nhìn vào sự vật đều bị bác bỏ. Thay vào đó các kinh
sách được viết bằng một ngôn ngữ rất mờ (fuzzy). Càng mờ lại coi là càng uyên
thâm. Nhiều người theo Đạo gần như quên mất một điều là phải tự mình suy ngẫm,
thiền luyện, giác ngộ trong Thế Giới Nội Tâm (Inner Space) chứ không cầu xin,
đi tìm các giải pháp ở bên ngoài, nặng về lễ bái. Thay vì tìm sự bình an trong
giây phút hiện tại như Phật dạy lại cứ luôn bất an về Quá Khứ và Tương Lai.
Thay vì phải vượt lên thắng chính mình để theo Đạo, lại hạ chuẩn Đạo cho gần
mình. Sự kết nối mềm Đạo và Đời là cần thiết nhưng nên mạch lạc, phần nào Đạo,
phần nào Đời với các trọng số thich hợp để kết nối. Thay đổi là ở các trọng số,
cách kết nối chứ không nên theo cách làm thay đổi, biến dạng Đạo, đẻ ra lắm
cành, lắm bụi. Tiếc lắm. Cũng có những cố gắng của các trí tuệ Phật giáo muốn
giữ gìn sự trong sáng, đơn giản của Đức Phật Thich Ca. Nhìn kỹ ra thì Yoga it bị
biến dạng nhất, ít bị pha tạp bởi những cái của đời thường. Có lẽ vì Yoga là phải
tự luyện, tự mình, không liên quan đến ai khác cũng như môi trường Đời bên
ngoài, là phép tu luyện thực sự của bản thân trong thế giới Tâm Linh và hiệu quả
đối với sức khỏe là điều kỳ diệu mà không ai phủ nhận được.
Ba Tầng của
Yoga:
-Tầng 1: Để
Thân Xác-Tâm Tính mình tốt hơn với những ý nghĩ tích cực
-Tầng 2: Để
nhận ra Mình
-Tầng 3: Đúng
theo nghĩa của Yoga (Raja Yoga) là kết nối với Thượng Đế
Phật-Chúa là
một tồn tại mang tính Cộng Đồng, bầy đàn (Bầy đàn chỉ có thể suy nghĩ bằng hình
ảnh, chỉ bị ảnh hưởng bởi hình ảnh. Đừng bao giờ tác động vào trí thông minh và
lí trí của đám đông. Đám đông bao giờ cũng thích ảo tưởng hơn sự thực- Gustave
Le Bon). Hãy chọn lấy phần tinh khiết của Phật giáo Nguyên Thủy ít chịu ảnh hưởng
của đám đông hơn, ít bị chi phối bởi Đời, xã hội. Ít tham hơn nhất là tham
đúng. Các tôn giáo khác cũng vậy thôi.
Thần Thánh
----------------
Đó là những
năng lượng cao trung gian, ít nhiều tùy không gian, thời gian có ảnh hưởng đến
quần chúng. Thần Thánh tồn tại trong tương tác với quần chúng, chịu ảnh hưởng
nhiều của quần chúng, mang rất nhiều đức tính của Quần Chúng. Khác với Thượng Đế
đòi hỏi mỗi con người phải vươn lên, tu luyện thắng chính những cái xấu buông bỏ
cho tinh khiết, Phật-Chúa dễ hơn nhưng cũng bắt đòi hỏi con người tu thân (Quay
đầu là Bờ - Bờ chính là không gian trong Tâm mình, An trú ở đó), Thần Thánh nặng
về lễ bái, cầu xin, liên quan nhiều đến tâm lý sợ hãi của con người, của tâm lý
đám đông.
Con Người
Mỗi con người
(Giàu- Ngèo, Mạnh-Yếu...) có những hòan cảnh khác nhau và những lựa chọn khác
nhau. Sự lựa chọn đó xuất phát từ mình. Kể cả người rất mạnh, không lựa chọn gì
cả, vô thần, chỉ chọn tin vào chính mình cũng có lý của họ. Con người có giác
quan. Có những người lựa chọn chỉ tin vào những cái gì Hữu Hình được kiểm chứng
bằng con đường thông qua giác quan kiểu có tự thấy mới tin. Con người còn có
trí tưởng tượng, cảm nhận. Có những người thiên về mặt này. Thực ra con người
chỉ giống nhau ở hai điều. Thứ nhất là họ giống nhau ở chỗ không ai giống ai,
thứ hai là cùng bị chi phối bởi tâm lý bất an, bầy đàn, lây nhiễm
Thần Thánh là
kết quả của việc Xã hội hóa các tồn tại Tinh Thần. Nó có đặc thù địa phương nhiều.
Mỗi nhóm bầy đàn có Thần Thánh riêng và tương tác quần chúng - thần thánh ngày
càng mạnh. Không những thế nó lan tỏa vào đạo Phật làm biến dạng đạo Phật.
Kết luận:
-Con người
không thể làm hỏng Thượng đế vì nếu theo định nghĩa thì đó là tuyệt đối duy nhất-Đấng
tòan năng, năng lượng và tần số vô biên, không có hình hài của chúng ta với những
luật chơi (Tuần hòan và nhân quả - Trật tự và cân bằng ) bất biến với thời
gian, không gian, không bị biến dạng. Để đến được với Thượng đế cần tu luyện một
cách bướng bỉnh, không đổ tại bên ngòai (không gian) cũng như qua khứ, tương
lai (thời gian). Phải tinh khiết và đủ năng lượng và nhịp đập để hòa theo nhịp
đập của Thượng Đế....
-Còn lại tất
cả đều tương đối. Do con người đặt ra. Người trí tuệ trong sáng sẽ tìm thấy ở
đó sự tiến hóa. Người muốn lợi dụng sẽ có thể đơm đặt tiếp, tha hóa vụ lợi.
Khoa học
------------
Khoa Học để
sáng tạo ra những sản phẩm chất xám, để nhận thức thế giới và con người
Khoa Học (từ
tiếng Latin Scientia, có nghĩa là "Kiến Thức") là một hoạt động có hệ
thống được xây dựng và tổ chức kiến thức trong các hình thức giải thích và dự
đoán có thể kiểm chứng về vũ trụ cũng như thế giới của con người-Vũ Trụ Quan và
Thế Giới Quan.
Có nhiều trường
phái khác nhau của triết lý khoa học. Phổ biến nhất là trường phái theo chủ
nghĩa kinh nghiệm Duy Thực cho rằng kiến thức mà được tạo ra bởi một quá trình
liên quan đến quan sát và khoa học là kết quả những quan sát của nhiều thế hệ
được xếp sắp cho có hệ thống và gia công chúng sao cho không mâu thuẫn nhau. Họ
xây dựng các lý thuyết, chứng minh giả thuyết thông qua quan sát và thực nghiệm,
và phân tích kết quả bằng các kỹ thuật thống kê giúp họ xác định những phát hiện
quan trọng về sự vật.
Ngược lại là
trường phái Duy Tâm do Descartes chủ trương cho rằng kiến thức được tạo ra bởi
trí tuệ của con người, không phải bằng cách quan sát. Cơ sở của khoa học là lý
thuyết tập hợp với các phần tử được định nghĩa và những phép suy luận của Logic
Hình Thức (Formal Logic). Ở đây tránh nói đến niềm tin. Thay vào đó là những
tiên đề, giả thuyết, nguyên lý, mô hình được đề xuất. Phương pháp tiên đề là một
trong những phương pháp xây dựng lý thuyết khoa học bằng suy luận diễn dịch
(suy diễn) từ một hệ tiên đề gồm những đối tượng cơ bản và quan hệ cơ bản
(không định nghĩa) thỏa mãn một số tối thiểu mệnh đề (không chứng minh)gọi là
tiên đề, có tính phi mâu thuẫn, độc lập và đầy đủ. Tất cả những nghiên cứu của
khoa học đặc biệt là bằng những thao tác của Tư Duy đều cần được kiểm chứng lại
trong thực tế và xác định giới hạn áp dụng những kết quả đó vì Tư Duy phụ thuộc
con người, có nghĩa là mang tính chất Chủ Quan. Dù Tư Duy có được bổ xung bởi
Logic Mờ không phải nhị phân với hai khả năng đúng sai (như Logic Aristotle)
nhưng vẫn không thoát khỏi cái bản chất chính đó. Vì thế cùng với việc giải mã
sự bất định của Thế Giới sự bất định lại như tăng lên, giống như khi phần trong
hinh tròn (phần hiểu biết) càng lớn thì phần ngoài chu vi (phần không hiểu biết)
cũng lớn theo.
Về Logic.
Chân lý bao giờ cũng Logic, nhưng nếu như chỉ nhất quán Logic không thôi thì vẫn
không phải là chân lý. Phật cho rằng không nên chấp nhận một học thuyết trên cơ
sở lập luận đơn thuần (Kinh Kalamas).
Tính Bất Định
của Thế Giới này được Heraclitus, nhà hiền triết Hy Lạp sống khoảng năm 500 trước
CN thấy như là thể giới "đang trôi chảy". Einstein cũng coi như Vũ Trụ
chưa có xong, nó cũng như mọi sự vật luôn luôn ở trong trạng thái "trở
thành". Đạo Phật cũng khẳng định sự vật luôn luôn biến đổi, "vạn pháp
là vô thường", không có gì tồn tại vĩnh viễn cả.
Sự vận động
thay đổi liên tục đó chứa đựng nhiều triết lý và thế giới quan khác hẳn nhau. Đằng
sau sự luôn thay đổi của hiện tượng, liệu có một cái bất biến, hay là không có
gì cả? Đây là câu hỏi trung tâm nhất của mọi triết lý về sự biến dịch, và của
Khoa Học.
Khoa Học truyền
thống chấp nhận quan niệm tồn tại độc lập của thế giới khách quan và nhiệm vụ của
nó là nghiên cứu tính chất của thế giới khách quan đó, hình thành từ những cái
gì. Tuy nhiên những quan niệm mới trong khoa học cũng dần xuất hiện. Thế giới
chứng minh bị khủng hoảng bởi định lý bất toàn của Godel, cơ sở lập luận Logic
truyền thống bị lung lay bởi nghịch lý Russell và nguyên lý bất định Heizenberg
cũng như những nghiên cứu trong vật lý học hiện đại cứ như Thế Giới có là vì
hành động đo lường của chính chúng ta hay nói chung vì ta nhận thức nó chứ nó
không hề tồn tại một cách độc lập với những đặc tính riêng của nó chỉ xuất hiện
khi ta nhận thức nó.
Logic được
nhìn nhận một cách khác. Nhiều nhà khoa học quan tâm tới những phương pháp nhận
thức thế giới Vô Hình, tới quan niệm "pháp vô ngã, nhân vô ngã" của đạo
Phật.
Cuối cùng thế
giới hữu hình của Khoa Học và thế giới vô hình của Tâm Linh hình như cũng có
cái liên thông. Đó là Năng Lượng, cũng là một dạng của Vật Chất theo công thức
nổi tiếng về khối lượng vật chất, năng lượng và tốc độ ánh sáng, theo quan niệm
của Lão Tử, tụ lại thành hình, tan ra thành khí (năng lượng). Ở đây cần xem lại
câu nói bóng bẩy văn hoa của Décartes:: Chỉ có một cái nằm ngoài sự ghi ngờ, đó
chính là sự ghi ngờ. Con người để đi xa hơn nữa trên con đường nhận thức thế giới
khách quan cũng đã nhận ra rằng những công cụ tư duy Logic của khoa học truyền
thống hai chiều, những phép đo liên quan đến các giác quan có những hạn chế ..,
cần được bổ xung bởi những linh cảm, kỳ diệu, vô hình, đa chiều.
"Khoa học
bắt đầu từ phép đo" - Mendeleev nói. Những bước đi của khoa học trên hai
chân Định lượng và Định tính có lúc lướt nhanh, có những lúc như dò dẫm nhưng
luôn mang ánh sáng của tri thức, có cả ngọn lửa Ptoleme, cả trái tim Danko rọi
vào thế giới vô hình bí ẩn quanh ta. Các nhà khoa học chân chính với mục đích
nghiên cứu phục vụ con người thì thực ra theo Đạo rồi. Khi nghiên cứu họ cần tập
trung cao độ thì nghĩa là đã thiền chánh rồi (mindfuless meditation). Khoa Học
Chân Thiện Mỹ đó cũng chính là một tôn giáo ánh sáng trí thức của loài người.
Tham gia thảo
luận trên Facebook tại đây
Bạn nên xem Thượng đế giảng chân lí để hiểu rõ đừng dùng phàm trí để suy luận
ReplyDelete