Tháng 4 này kỷ
niệm 5 năm Mỹ và Nga ký Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược mới (New START,
8/4/2010) tại Prague. Qua nửa thập kỷ, quan hệ cựu thù tưởng chừng có thể cải
thiện sau cuộc Chiến tranh lạnh thì lại trở nên ngày một căng thẳng do khủng hoảng
Ukraine, thậm chí có những lo ngại về chạy đua vũ trang mới.
Hãy cùng nhìn
lại những cuộc chạy đua vũ trang giữa hai cường quốc, các hiệp ước SALT để phần
nào có cái nhìn soi rọi cho bối cảnh hiện nay. (Tuần Việt Nam)
Nhìn lại các
hiệp ước SALT-1 và SALT-2 về giải trừ quân bị
Từ năm 1953
là năm lãnh tụ Xô-viết Josef Stalin qua đời, “chiến tranh lạnh” đi vào giai đoạn
khá “ổn định.” Đặc trưng của giai đoạn này là việc hai bên chạy đua phát triển
vũ khí công nghệ cao, xây dựng kho bom khinh khí của riêng mình, phát triển các
tên lửa tấn công chiến lược tầm xa và tầm trung với kho đầu đạn hạt nhân khổng lồ… Tình thế này xuất phát từ việc Liên
Xô không từ bỏ học thuyết của mình là coi “Đế quốc Mỹ cầm đầu phe hiếu chiến,
Liên Xô cần làm thành trì của hòa bình thế giới và hỗ trợ cho phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, bị áp bức.” Về phần mình, Hoa Kỳ bước sang
nhiệm kỳ của tổng thống Eisenhower với phó tổng thống Richard Nixon; cũng muốn
đoạn tuyệt với chính sách “kiềm chế” của Truman mà chuyển sang chiến lược “đẩy
lùi.” Nước Mỹ sẽ tránh sa vào những cuộc chiến tranh hạn chế không thể giành thắng
lợi như chiến tranh Triều Tiên 1950, khi mà Trung Quốc có thuận lợi về địa lý
đã tham chiến một cách khá hiệu quả, gây nhiều khó khăn cho đối phương. Chính
vì thế mà chính sách quân sự mới của nước Mỹ sẽ là cắt giảm chi phí cho những lực
lượng quân sự thông thường, mà tập trung vào phát triển vũ khí công nghệ cao, tập
trung các thành tựu khoa học tiên tiến. Chính sách của Eisenhower vẫn là cần
ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và từ nay nếu
bất cứ có sự tấn công nào của một nước cộng sản, thì sẽ được đáp trả bằng sự trả
đùa ồ ạt ở nhiều khu vực trong cùng một lúc. Đó chính là nội dung chính của chiến
lược “đẩy lùi.”
Ngày
27/5/1952, một Hiệp ước về cộng đồng phòng thủ chung Châu Âu được ký kết tại
Paris. Trải qua khoảng hơn 2 năm đắn đo của vài nước, nhất là Pháp, thì cuối
cùng Hiệp ước này đã trở thành cái khung của NATO mà trên thực tế, nền tảng của
nó đã được đặt những viên gạch đầu tiên từ năm 1949. Theo những hiệp ước này
thì Hoa Kỳ sẽ tiếp tục duy trì quân đội của mình trên lãnh thổ Châu Âu để đối
phó những nguy cơ từ phía Liên Xô và các nước đồng minh.
Ngày 8/9/1954
Hiệp ước Manila được ký kết, còn gọi là Hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam Á,
với sự tham gia của các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Australia, New Zealand,
Philippines, Pakistan và Thái Lan tham gia, và liên minh quân sự này còn được gọi
là SEATO. Như vậy dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ, đã hình thành thế cờ bao vây khối
các nước xã hội chủ nghĩa. Đó là chưa kể các hiệp ước song phương về việc “hỗ
tương phòng thủ” Hoa Kỳ ký riêng rẽ với các nước và vùng lãnh thổ: với
Philippines ngày 30/8/1951; với New Zealand ngày 1/9/1951; Nhật Bản ngày
8/9/1951; Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) ngày 1/10/1953; với chính quyền Đài Bắc (Tưởng
Giới Thạch) ngày 2/12/1954 để bảo vệ Đài Loan và quần đảo Bành Hồ.
Trong suốt
quá trình này, Liên Xô luôn luôn phản đối, nhất là việc hình thành Liên minh
quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO.) Ngày 7/5/1955, Liên Xô đơn phương hủy bỏ các
Hiệp ước đồng minh Anh – Xô (1942) và Pháp – Xô (1944.) Từ 1948 đến 1955, Liên
Xô đã ký một loạt các hiệp ước đồng minh quân sự song phương với các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu trừ Cộng hòa Dân chủ Đức. Ngày 11 đến 14/5/1955, khối các nước
này nhóm họp ở Varsaw, thủ đô Ba Lan đi đến ký kết Hiệp ước liên minh quân sự của
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu gồm có: Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Cộng hòa
Dân chủ Đức, Bulgaria, Rumani, Hungari và Albani. Có thể nói Hiệp ước thành lập
Khối Varsaw này là một bản sao của Hiệp ước thành lập NATO, trong đó đối trọng
với Hoa Kỳ, Liên Xô sẽ đóng vai trò chính, là lực lượng chủ đạo của khối.
Như vậy là
trên lục địa Châu Âu, đã hình thành hai Khối liên minh quân sự đối đầu nhau.
Đây là thời điểm bắt đầu cho cuộc “chiến tranh lạnh.” Đến đầu thập kỷ 1960 là
thời kỳ xảy ra những khó khăn cho cả hai khối. Với NATO, việc nước Pháp có thay
đổi chính sách mà người ta gọi là thời kỳ “Chính sách De Gaulle”. Tháng 3/1962,
trao trả độc lập cho Algerie. Trước đó, trong hai năm 1960 và 1961, nước Pháp
liên tục tiến hành những vụ thử bom khinh khí và chính thức bước vào nhóm các
nước có vũ khí hạt nhân. Thái độ của nước Pháp do đó, cũng “nhạt” dần với NATO.
Đến đây chính những nỗ lực của tổng thống Kennedy “nói chuyện” với De Gaulle,
nhằm giúp cho liên minh quân sự này, không bị tan rã chỉ do sự “li khai” của
Pháp. Tuy nhiên sau sự kiện Kennedy bị ám sát năm 1963, phó tổng thống Lyndon
Johnson lên thay và trúng cử tổng thống năm 1964, đã quan tâm nhiều hơn đến cuộc
Chiến tranh Việt Nam. “Chính sách De Gaulle” nghiêng nhiều hơn sang hướng xích
lại gần Phương Đông: công nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1/1964) đồng
thời cắt đứt quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Trung Hoa (Đài Loan) là đồng minh
của Hoa Kỳ. Tháng 4/1964, tại Đại hội đồng SEATO, Pháp đề nghị trung lập hóa
Nam Việt Nam và sau đó, Pháp rút khỏi Khối liên minh quân sự này. Đỉnh cao của
“Chính sách De Gaulle” là ngày 23/7/1964, Charles De Gaulle trong một buổi họp
báo, đã phát biểu: “Việc thế giới hình thành 2 phe do Washington và Moscow cầm
đầu, ngày càng không phù hợp với tình hình thực tế. Theo ý kiến của người Pháp
chúng tôi, Châu Âu phải cố gắng để trở thành Châu Âu!” Ngày 7/3/1966, nước Pháp
quyết định vẫn là thành viên của NATO, nhưng rút toàn bộ lực lượng quân đội của
mình đang tham gia Khối liên minh quân sự này.
Tưởng chừng
khi NATO suy yếu và chính sách đối đầu rõ rệt của Pháp với Hoa Kỳ, sẽ ủng hộ Khối
Varsaw, nhưng chính khối này trong cùng thời kỳ cũng suy yếu. Những sự kiện nổi
bật đánh dấu cho sự suy yếu này là: Tổng bí thư ĐCS Liên Xô Khrouschev mất chức,
các biến động chính trị ở Rumani, Tiệp Khắc hay rạn nứt quan hệ Trung – Xô…
Thập kỷ 1950
là thập kỷ được đánh giá là phát triển hoàng kim của Liên Xô. Tuy nhiên sau đó,
những dự đoán lạc quan của Tổng bí thư Khrouschev rằng Liên Xô sẽ đuổi kịp nước
Mỹ vào thập kỷ 1970, đã không thành hiện thực. Đây cũng là thời gian được đánh
dấu bằng sự chạy đua giữa hai siêu cường, không chỉ trên lĩnh vực quân sự, mà
còn (và thể hiện rõ nhất) ở lĩnh vực khoa học vũ trụ và kinh tế. Năm 1957, Liên
Xô là nước đầu tiên trên thế giới phóng thành công vệ tinh nhân tạo của trái đất
– Sputnik và mãi đến 21/7/1969, Hoa Kỳ mới là nước đầu tiên đưa con người đặt
chân lên mặt trăng. Đến năm 1973, chính Hoa Kỳ là nước phóng trạm vũ trụ đầu
tiên mà trên đó, con người đã sống gần 2 tháng. Về vũ khí quân sự, Liên Xô và
Hoa Kỳ là ngang bằng nhau về mức độ phát triển công nghệ, nhưng Liên Xô hầu như
tụt hậu trong tất cả các lĩnh vực khác, nhất là điện toán. Một thách thức
nghiêm trọng nữa cho Liên Xô, là việc ngày càng thua kém về kinh tế. Ngay một
nước láng giềng có diện tích nhỏ hơn Liên Xô đến 60 lần là Nhật Bản cũng đã dần
dần vượt được Liên Xô về tổng sản phẩm quốc dân (GNP) vào giai đoạn 1985 –
1990, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ. Mức sống trung bình của người dân Liên Xô
không những thấp hơn mức sống dân Mỹ mà còn thấp hơn cả của dân Tây Âu.
Ngược lại,
đây cũng là thời kỳ khó khăn của nước Mỹ: sa lầy trong cuộc Chiến tranh Việt
Nam, năm 1973 Hoa Kỳ buộc phải rút quân đội của mình khỏi Đông Dương, dẫn đến
ngoài những thiệt hại về kinh tế, còn là sự suy giảm lòng tin của dân chúng với
chính sách của Hoa Kỳ, nhất là vào vai trò cần thiết sự có mặt của nước này
trong những sự kiện nóng trên thế giới.
Sau cuộc khủng
hoảng tên lửa ở Cuba năm 1961, nhân dân thế giới đã bắt đầu tin vào một việc là
dù cả hai bên có đầy đủ bom A, bom H và đủ các loại tên lửa tầm xa tầm trung lẫn
tầm ngắn, nhưng chắc chắn không ai muốn chiến tranh hủy diệt xảy ra cả. Việc cả
hai bên cùng phát triển vũ khí hạt nhân, tên lửa tấn công, đội tàu ngầm tấn
công mang theo tên lửa có thể gắn đầu đạn hạt nhân lượn khắp đáy các đại dương
được đẩy mạnh. Mà đã phát triển tên lửa tấn công, thì phải phát triển cả tên lửa
phòng thủ “chống tên lửa”, cực kỳ tốn kém – đã trở nên gánh nặng với cả hai
siêu cường. Với Hoa Kỳ, việc chạy đua vũ trang đã nặng nề, thì Liên Xô yếu về
kinh tế hơn nhiều, vẫn cố duy trì một sức mạnh tương đương, còn vất vả hơn. Bất
chấp chi phí cho chạy đua vũ trang thấp hơn (chủ yếu ở mức lương trả cho lực lượng
vũ trang), nhưng Liên Xô vẫn phải đánh đổi ảnh hưởng nặng nề trực tiếp đến mức
sống của nhân dân.
Giải trừ quân
bị (Arm control) đã trở thành nhu cầu thiết yếu và do đó, nhu cầu của hai siêu
cường đã gặp nhau. Bước đầu, hai nước đàm phán về việc dừng các vụ thử vũ khí hạt
nhân trong khí quyển, nhưng vấp phải sự phản đối của Pháp khi cho rằng, đây chỉ
là mưu đồ của hai nước lớn muốn ngăn không cho những nước thứ ba phát triển loại
vũ khí này.
Ngày
5/8/1963, Hiệp ước Moscow về việc từ 10/10/1963 sẽ ngừng các cuộc thử vũ khí hạt
nhân trong khí quyển được ký giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, và gần như ngay lập tức rất
nhiều nước trên thế giới tham gia Hiệp ước này. Tính đến tháng 10/1963, đã có
102 nước tham gia, trừ Pháp. Cùng lý do với nước Pháp, Trung Quốc cũng không
tham gia. Tháng 7/1968, Liên Xô, Hoa Kỳ và Anh ký kết Hiệp ước không phổ biến
vũ khí hạt nhân. Pháp và Trung Quốc cũng vẫn không tham gia Hiệp ước này. Giữa
năm 1967, Trung Quốc thử quả bom H đầu tiên (năm 1964 Trung Quốc thử bom A đầu
tiên) và một năm sau, mùa hè 1968 đến lượt nước Pháp thử quả bom H đầu tiên của
mình. Đến năm 1974 thì Ấn Độ cũng “vào xới” khi cũng thử hom hạt nhân…
Ngày
12/6/1968, tổng thống Mỹ Johnson đọc diễn văn tại Liên Hiệp Quốc đề nghị đàm
phán Xô – Mỹ về việc chấm dứt xây dựng hệ thống tên lửa chống tên lửa. Ngày
27/6/1968, ngoại trưởng Liên Xô Gromyko đề nghị hai nước Xô – Mỹ đàm phán về hiệp
ước “hạn chế tên lửa tiến công về phòng thủ” (trước mắt chưa hạn chế được các
nước thử bom A bom H thì hạn chế “phương tiện phóng” cái đã.)
Ngày
17/11/1969 tại Helsinki, Phần Lan đã diễn ra hội nghị đàm phán mà Hoa Kỳ gọi là
“Đàm phán về hạn chế vũ khí chiến lược” (SALT – Strategic Arms Limitation
Talks.) Do gặp nhiều khó khăn trong đàm phán SALT-1, mãi đến năm 1972 ngày 26/5
Nixon và Breznev mới ký kết được với nhau hiệp ước tạm thời về hạn chế xây dựng
hệ thống tên lửa chống tên lửa và hệ thống vũ khí tấn công. Một năm sau,
Breznev đi thăm Hoa Kỳ và hai bên thống nhất được việc cam kết không để cho chiến
tranh hạt nhân xảy ra và xúc tiến những cuộc đàm phán mới trong khuôn khổ
SALT-2.
Theo:
“Lịch sử quan
hệ ngoại giao từ 1919 đến nay” – Jean Baptiste Duroselle, những người dịch Lưu
Đoàn Huynh, Quách Ngọc Bảo; bản xuất bản của Học viện Quan hệ quốc tế (nay là học
viện Ngoại giao), 1994. Có tham khảo thêm bản pdf “Histoire diplomatique de
1919 à nos jours” Paris, Dalloz, 1974, 871 trang.
Reuter, Defencenews.com, commentarymagazine.com.
Bài trên Tuần Việt Nam tại đây
Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment