Năm 1991,
Liên Xô tan rã đồng nghĩa với việc chấm dứt sự tồn tại của Khối Varsaw sau suốt
gần 40 năm tồn tại như một đối trọng với NATO. Tưởng chừng sự mất cân bằng về
tương quan quân sự thế giới sẽ được lập bằng cách tương tự như việc giải thể khối
NATO; nhưng thực tế việc đó đã không diễn ra. NATO không ngừng mở rộng lãnh thổ
của mình về phía Đông, bằng cách kết nạp thêm các thành viên mới là các nước
trước đây là các Cộng hòa Xô-viết thuộc Liên Xô cũ. Điều đó cũng đồng nghĩa với
việc, lực lượng của khối này ngày càng tiến sát biên giới với nước Nga.
Nước Nga với
tư cách là nước được tiếp quản gần như tất cả những gì quan trọng nhất mà Liên
Xô để lại như ghế trong Hội đồng bảo an của Liên Hiệp Quốc, gần như toàn bộ kho
vũ khí hạt nhân và tên lửa tấn công chiến lược, các cơ sở công nghiệp quốc
phòng chủ yếu… Năm 2007, tổng thống Nga V.Putin quyết định cho tiến hành trở lại
những chuyến bay tuần tra của máy bay ném bom chiến lược tầm xa Tu-95 “Gấu”, một
trong những hoạt động đặc trưng của thời kỳ chiến tranh lạnh và đã bị gián đoạn
từ lâu. Đến nay, Tu-95 đã bay tuần tra sát không phận của NATO ở Bắc Âu nhiều
chuyến, và đáng chú ý là gần đây đã bắt đầu bay tuần tra sát vùng biển Alaska của
nước Mỹ và bay xuyên qua cả vùng Vịnh Mexico.
Chiếc Tu-95 vốn
được coi là biểu tượng của thời kỳ chiến tranh lạnh, khi mà cuộc chạy đua vũ
trang của Liên Xô với Hoa Kỳ lên đến cao trào. Được thiết kế và chế tạo bởi Tổ
hợp hàng không đứng đầu là nhà thiết kế lừng danh Tupolev, nó đạt tới một số giải
pháp kỹ thuật cực kỳ hiệu quả. Vào thời kỳ kỷ nguyên phản lực, mà Tupolev lại lựa
chọn cho “Gấu” động cơ tuốcbin cánh quạt… Tu-95 là chiếc máy bay ném bom chiến
lược đạt tầm bay xa thuộc hàng kỷ lục – 17.000 km không cần tiếp nhiên liệu và
có một độ tin cậy cực cao và hết sức bền bỉ. Dự kiến không quân Nga sẽ còn tiếp
tục sử dụng “Gấu” cho đến tận năm 2040. Từ khi nổ ra cuộc “Khủng hoảng Ukraine
và Crimea,” Nga lại càng tăng cường hơn nữa các chuyến bay tuần tra của “Gấu”
sát không phận các nước NATO. Không thể nói rằng những chuyến bay của “Gấu”
không làm dấy nên những lo ngại của giới chức quân sự Phương Tây.
Từ năm 1989,
Liên Xô từng sở hữu 12 đoàn tàu hỏa hạt nhân mang tên Skapel nhưng chúng đã ngừng
hoạt động sau khi Nga và Mỹ ký hiệp ước START-2 năm 1993, theo lộ trình của hiệp
ước này, các đoàn tàu hỏa hạt nhân cũng như những tuyến đường sắt cho chúng, sẽ
được hủy (cho đến năm 2005 sẽ hoàn tất.) Từ năm 2009, Nga tuyên bố sẽ phục hồi
lại dự án đoàn tàu hạt nhân Berguzins. Đầu năm nay, Nga thông báo chính thức về
dự án này: Berguzins sẽ có 17 toa gồm các toa chỉ huy, điều khiển, căn hộ di động,
3 toa bệ phóng và các toa chở 6 tên lửa RS-24 (Yars), một loại tên lửa có 4 đầu
đạn với sức công phá từ 0,4 đến 1,2 megaton. Lực lượng sẽ bao gồm 5 đoàn tàu
như vậy, tương đương 5 trung đoàn tên lửa hạt nhân chiến lược.
Hiện nay dự
án mới nhất và gây nhiều quan tâm của dư luận của Hải quân Liên bang Nga chính
là hai chiếc tàu đổ bộ chở trực thăng Mistral do Pháp đóng, hiện nay chưa thể
giao được hàng vì lệnh trừng phạt của Phương Tây áp dụng lên Nga. Hải quân Nga
mà tiền thân là Hải quân Xô-viết vốn được biết đến nhiều với những chiếc tầu
sân bay lớp “Đô đốc Kuznetsov,” lớn hơn những tàu đổ bộ tấn công của Hoa Kỳ
nhưng nhỏ hơn tàu sân bay chạy bằng năng lượng nguyên tử của nước này. Khi Liên
Xô tan rã, những tàu sân bay “Đô đốc Kuznetsov” này được sở hữu bởi Hải quân
hai nước Nga và Ukraine – thực tế Ukraine chỉ lấy được 1 chiếc Variag và đã bán
cái xác của nó cho Trung Quốc và trở thành tàu sân bay đầu tiên, chiếc Liêu
Ninh của Hải quân Trung Quốc. Hải quân Nga đã được lên kế hoạch để có được ít
nhất một tàu sân bay mới (không phải tầu chở trực thăng tấn công như Mistral)
trong vòng vài năm tới… Thật đáng tiếc với Nga, năm ngoái khi nước ngày sáp nhập
Crimea nhưng xưởng đóng tàu chiến của Liên Xô cũ tại biển Đen, lại không có
trên lãnh thổ bán đảo này. Hiện nay, nhà máy vẫn thuộc về Ukraine…
Cuối năm
2014, Nga mở cửa cho phép các phóng viên vào tiếp cận “Trung tâm điều hành quốc
phòng quốc gia” mới được khánh thành – dự án mới chỉ bắt đầu năm 2013 đã được
hoàn thành trong một thời gian ngắn. Đánh giá về độ hiện đại của nó, người ta
chỉ có thể nói là “kinh khủng” – có thể nói nhiều mặt nó vượt xa Trung tâm
tương tự của Hoa Kỳ ở Lầu Năm Góc.
Nếu như chúng
ta đặt tất cả những động thái này trong tương quan với các sự kiện “khủng hoảng
Ukraine và Crimea” thì sao? Tại sao Nga lại dùng Tu-95 để bay tuần tra, khi mà
ngoài những chức năng ưu việt của nó, thì “Gấu” còn nổi danh là “siêu ồn ào”
khi mà Nga còn có máy bay ném bom chiến lược phản lực hiện đại hơn nhiều, chiếc
Tu-160 “Blackjack”? “Gấu” Tu-95 ồn ào đến mức mà phi công NATO phản ánh khi bay
bên cạnh để giám sát “Gấu”, họ không thể dùng điện đàm nói chuyện với trung tâm
kiểm soát “nó quá ồn…” Hay tại sao lại là thông tin không giấu diếm về đoàn tầu
hạt nhân chiến lược được phục hồi, lại công bố vào thời điểm này?
Về Tu-95 “Gấu”
– chi phí cho những chuyến bay của nó khá rẻ nhưng cực kỳ hiệu quả, nhất là về
mặt tâm lý, vì tính đa năng của “Gấu”: tuần tra, giám sát tầu ngầm đối phương
và nhất là khả năng ném bom hạt nhân. Nghĩa là, sự “ồn ào” của nó tưởng là nhược
điểm, nhưng trong trường hợp này lại là ưu điểm. Đánh giá về những chuyến bay của
“Gấu,” Đô đốc Hoa Kỳ, tư lệnh Bộ Tư lệnh Phòng thủ Không gian Bắc Mỹ Bill
Gortney đã phát biểu: “Đây là một thông điệp họ gửi cho chúng ta. Thông điệp đó
là: chúng tôi (Nga) vẫn là một siêu cường của thế giới. Chúng ta phải làm một
điều gì đó (để đáp trả)… những chuyến bay đó là bình thường (kể cả những chuyến
bay qua vịnh Mexico) nhưng nếu cần ngăn chặn, thì chúng ta sẽ ngăn chặn chúng một
cách hữu hiệu.”
Về những đoàn
tàu hỏa hạt nhân chiến lược, thì chúng ta từ lâu đã biết Nga là nước có hệ thống
đường sắt phát triển tương đối nhiều so với đường bộ, nhất là tiếp cận với các
vùng Viễn Đông xa xôi. Việc phát triển đoàn tầu hạt nhân, đem lại tính cơ động
cao hơn nhiều so với triển khai tên lửa trên các xe ô tô chuyên xa từ trung tâm
nước Nga tới biên giới. Khả năng tiếp cận của tên lửa Nga tới biên giới nước Mỹ
từ phía bờ Thái Bình Dương, là hoàn toàn có thể tính toán được, không cần phải
là chuyên gia quân sự mà người bình thường chúng ta cũng có thể hình dung ra điều
đó. Đây lại là một hành động hiệu quả nữa của Nga – rất tác dụng kể cả về chiến
thuật quân sự lẫn hiệu quả tâm lý.
Trên biển, nước
Nga cũng không ngồi yên mà khá chủ động trong việc khắc phục những yếu kém về Hải
quân. Một mặt để nhanh chóng tiếp cận với công nghệ hiện đại, Nga không ngần ngại
“outsourcing” đặt hàng tầu tấn công chở trực thăng Mistral của Pháp. Mặt khác để
dần dần, từng bước phục hồi công nghiệp đóng tàu chiến, Nga ký hợp đồng với Ấn
Độ khôi phục và tái trang bị cho chiếc tàu sân bay Đô đốc Gorshkov tại nhà máy
đóng tàu Sevmash ở Bạch Hải, nó sẽ trở thành chiếc “Vikramaditya” của Hải quân Ấn
Độ. Hợp đồng giá trị 1 tỷ đô-la Mỹ này có lợi cho cả hai bên: Nga từng bước phục
hồi công nghiệp đóng tàu quốc phòng (có thêm kinh nghiệm để tái trang bị cho
tàu sân bay lớp Đô đốc Kuznetsov) và có nguồn thu ngân sách, Ấn Độ có tàu sân
bay với giá hợp lý (tàu sân bay cỡ lớn của Hoa Kỳ có giá đến 14 tỷ đô-la.) Tuy
nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng, nảy sinh nhiều khó khăn như thiếu hụt
nhân công của Sevmash đã làm cho chi phí của “Vikramaditya” tăng gấp đôi, cũng
như việc không lường trước được mức độ tụt hậu công nghệ, mà trên hành trình
giao tàu cho Ấn Độ, nó đã bị hỏng động cơ… Thiếu tướng Igor Kozhin, tư lệnh
Không quân Hải quân Liên bang Nga thì nói rằng Nga sẽ có chiếc tàu sân bay mới
đầu tiên vào năm 2015; nhưng trong tình hình ngân sách nước này thâm hụt nặng từ
“cú sốc dầu mỏ 2014,” nhà nghiên cứu Dmitry Gorenburg, Trung tâm nghiên cứu Nga
và Á – Âu Davis thuộc Đại học Harvard thì cho rằng Nga không thể có tầu sân bay
mới trước năm 2027.
Ngày 4/12/2014,
Hạ viện Mỹ thông qua Dự luật số H.Res. 758, cáo buộc Nga “gây hấn chính trị,
kinh tế và quân sự, vi phạm chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ” với
Ukraine, Gruzia và Moldova; vi phạm luật pháp quốc tế, với tỉ lệ phiếu 411/10…
với Dự luật này, Hạ viện Hoa Kỳ đã tuyên bố “chiến tranh lạnh” với Nga. Từ khi
V.Putin nắm quyền cho đến tháng 1/2014 ngân sách quốc phòng Nga là vào khoảng từ
2,5 đến 3,2% và có xu hướng tăng đều. Đến đúng thời điểm “khủng hoảng Ukraine
và Crimea” tháng 2/2014 ngân sách quốc phòng Nga đã tăng gấp đôi so với năm
2001; con số thống kê của các tháng 2, 3 và 4 năm 2014 cho thấy ngân sách quốc
phòng Nga là 6,7% GDP và chiếm 27,7% các khoản chi ngân sách. Ngay hai tháng đầu
năm 2015, chi ngân sách cho quốc phòng của Nga đã tăng 2,3 lần so với giai đoạn
từ tháng 5 đến tháng 12/2014; so với giai đoạn trước “khủng hoảng” là 3,3 lần
và so với giai đoạn năm 2000 là 8,8 lần. Chỉ có hai tháng này thôi, chi ngân
sách cho quốc phòng đã là 1,3 nghìn tỷ Rub, tức là hơn 20 tỷ đô-la Mỹ, chiếm đến
43,3% tổng các khoản chi ngân sách trong khi báo cáo về GDP của Nga liên tục giảm
do khó khăn về kinh tế - Michael Rubin cho biết (M. Rubin là học giả
chính thức của Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ, giảng viên cao cấp tại Trường Hải quân
cấp cao của Hải quân Hoa Kỳ về những vấn đề quân - dân sự.)
Trong khi đó,
Hoa Kỳ tiếp tục cắt giảm quân số bằng mức quân đội Mỹ vào thời điểm trước Chiến
tranh Thế giới thứ hai. Tổng thống Obama đã bước vào giai đoạn cuối nhiệm kỳ thứ
hai, đang phải đối phó với cuộc chiến chống Nhà nước Hồi giáo IS, đối thoại hạt
nhân với Iran và gần đây nhất là nội chiến ở Yemen… nước Mỹ như bị căng ra trên
tất cả các mặt trận. Chính vì vậy mà trong “cuộc khủng hoảng Ukraine và
Crimea,” đến nay chính sách của Hoa Kỳ chưa thực sự rõ ràng, như chưa quyết định
được việc có cung cấp vũ khí sát thương cho Ukraine hay không… thực ra ngay cả
việc phát triển mạnh công nghệ khai thác dầu đá phiến và chính sách giá dầu mỏ
của Mỹ và OPEC, cũng chưa thể khẳng định được đó có phải là “đòn đánh nhằm vào
Nga” (hoặc thêm cả một số nước “thù địch” như Iran hay Venesuela) hay không… Tổng
thống Barack Obama từ khi xảy ra cuộc “khủng hoảng Ukraine” đến nay, vẫn đang
được đánh giá chưa có được những chính sách đối ngoại hiệu quả để kiềm chế nước
Nga và nhiều khả năng cho đến hết nhiệm kỳ của mình, ông cũng không thể có được
hành động nào mang lại kết quả đáng kể. Mới nhất, ngày 11/4/2015 tổng thống
V.Putin đã ký sắc lệnh bỏ lệnh cấm cung cấp tên lửa S-300 cho Iran với lý do
“đã có những tiến bộ trong thỏa thuận giữa Iran và P5+1 gần đây về vũ khí hạt
nhân” – còn phía Mỹ thì bày tỏ lo ngại trước động thái rất mới này của Nga.
Từ câu chuyện
của “Vikramaditya” ta có thể phần nào hình dung ra được lý do Nga tăng mạnh
ngân sách quốc phòng trong khoảng thời gian ngắn gần đây, bất chấp những khó
khăn về kinh tế (giá dầu mỏ xuống thấp và lệnh trừng phạt.) Đầu tiên có thể
nói, là Nga muốn nhanh chóng thu hẹp khoảng cách, tiến đến đuổi kịp Phương Tây
nhất là Hoa Kỳ về mức độ phát triển công nghệ hiện đại trong lĩnh vực quân sự.
Cuộc tập trận gần đây của Nga ở Biển Bắc với quân số “khủng” càng nói lên nhu cầu
của nước này trong việc bắt kịp thế giới. Thời của chiến tranh dùng sức người
đã qua, nay đã đến thời kỳ của việc sử dụng những lực lượng nhỏ nhưng tinh nhuệ,
được hỗ trợ bởi công nghệ quân sự hiện đại. Thứ hai, ngoài bán dầu mỏ và khí đốt,
Nga có một nguồn thu rất lớn từ bán vũ khí và công nghệ quân sự; nhưng càng
ngày tính cạnh tranh của “hàng Nga” càng yếu đi nếu chỉ dựa trên giá rẻ, vì nó
vấp phải chính cạnh tranh của ông hàng xóm “hàng Trung Quốc” nhất là lĩnh vực
vũ khí cá nhân… Lĩnh vực bán vũ khí cũng là lĩnh vực Nga còn nhiều khách hàng
không bị khống chế bởi lệnh trừng phạt. Công nghiệp quốc phòng Nga nói riêng và
toàn bộ nền công nghiệp Nga nói chung, đã xuống cấp nhiều trong suốt thời gian
từ khi Liên Xô sụp đổ đến nay; cần phải có đầu tư phục hồi một cách thỏa đáng.
Có thể nói đầu tư vào lĩnh vực thế mạnh, cũng là một lựa chọn tốt của V.Putin –
và chúng ta có thể dự đoán việc “tăng chi ngân sách quốc phòng” của Nga trong
thời gian qua, chính là khoản đầu tư cho công nghiệp quốc phòng, cả sản xuất lẫn
nghiên cứu khoa học. Thứ ba, việc tăng đầu tư cho công nghiệp quốc phòng chắc
chắn cũng là một phần của kế hoạch phục hồi nền kinh tế, và nhiều khả năng
chính nó cũng đang là một trong những động lực đem lại cho nền kinh tế Nga con
số tăng trưởng “dương” trong thời gian gần đây. Không loại trừ lệnh trừng phạt
của Phương Tây cũng đã có tác dụng trong việc ngăn Nga tiếp cận với các thành tựu
công nghệ quân sự, do đó Nga phải quay lại đầu tư nghiên cứu, cũng là một
nguyên nhân gây tăng ngân sách quốc phòng.
Có vẻ như đây
là giai đoạn rất giống với thời của Tổng thống Carter, trước những hành động
tăng cường sức mạnh quân sự rất “bạo tay” của Liên Xô, Carter vẫn không có được
những biện pháp hữu hiệu để “ngăn chặn.” Quá trình đưa nước Nga trở lại vị trí
siêu cường về quân sự, Putin đã tiến hành thành công từ khi ngồi ghế tổng thống
năm 2001 và đến nay bất chấp những khó khăn về kinh tế, chưa có dấu hiệu dừng lại.
Hơn thế nữa, cuộc nội chiến ở Yemen lại góp phần làm giá dầu tăng lên được một
chút, đem lại cho sự phục hồi kinh tế Nga “con số dương…” Để khẳng định những
gì đang diễn ra có phải là một cuộc chạy đua vũ trang mới hay không, chưa thể
nói được gì, nhưng chắc là những thay đổi lớn trong chính sách với nước Nga phải
ở vào thời kỳ của vị tổng thống kế nhiệm ông Obama, chứ không phải năm 2015
này.
Hết
Đọc lại phần 2 tại đây
Đọc lại phần 1 tại đây
Theo:
“Lịch sử quan
hệ ngoại giao từ 1919 đến nay” – Jean Baptiste Duroselle, những người dịch Lưu
Đoàn Huynh, Quách Ngọc Bảo; bản xuất bản của Học viện Quan hệ quốc tế (nay là học
viện Ngoại giao), 1994. Có tham khảo thêm bản pdf “Histoire diplomatique de
1919 à nos jours” Paris, Dalloz, 1974, 871 trang.
defensenews.com; reuters.com; commentarymagazine.com
Bài trên Tuần Việt Nam tại đây
Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment