Không rõ cái
giàn khoan của Trung Quốc kéo vào vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta từ bao giờ,
nhưng chính trong những ngày chúng ta kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ,
thì thông tin về nó rộ lên, không chỉ cư dân mạng, mà cả cư dân không lên mạng
hoặc chỉ lên mạng bằng điện thoại, đều sục sôi.
Về các khía cạnh
pháp luật quốc tế, đã có rất nhiều bài viết về vấn đề này và không cần phải bàn
thêm nhiều. Vị trí có giàn khoang là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo
những gì Việt Nam tuyên bố và cộng đồng quốc tế thừa nhận, theo tiêu chuẩn của
Công ước Luật biển 1982 của Liên Hiệp Quốc mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là
thành viên.
Vậy cái lý của
Trung Quốc ở đây là gì? Đó là sự chiếm giữ thực tế - thuật ngữ “de facto” là để
chỉ tình trạng này đối với quần đảo Hoàng Sa. Cho dù anh có đưa ra bất cứ lý do
nào, viện dẫn lịch sử, nhưng chúng tôi, mới là người chiếm giữ thực tế, và
chúng tôi tuyên bố chủ quyền. Việc chiếm giữ như thế có thể bằng một hành động
quân sự như Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa, hoặc có thể bằng một hành động
hỗn hợp vừa quân sự, vừa sử dụng sức mạnh tổng hợp và các hiệp ước quốc tế như
trường hợp quần đảo Kuril trong quan hệ Liên Xô (cũ) nay là Nga với Nhật Bản;
hay quan hệ tranh chấp giữa Trung Quốc với Nhật Bản ở quyền đảo Senkaku… Tại
sao lại có yếu tố “de facto” ở đây? Vì nơi Trung Quốc đặt giàn khoan lần này,
cách đảo Lý Sơn của ta hơn 100 hải lý, nhưng chỉ cách hòn đảo gần nhất trong quần
đảo Hoàng Sa, có hơn 10 hải lý. Chúng ta tuyên bố Trung Quốc vi phạm chủ quyền
khi tiến hành khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế - là đạo lý, là luật pháp
quốc tế. Nhưng Trung Quốc đang tiến hành trên sự chiếm giữ thực tế, là “de
facto”.
Sự quan tâm của
các quốc gia đối với các hòn đảo nhỏ ngoài khơi chỉ thực sự tăng lên với việc
có hiệu lực của Công ước quốc tế về Luật biển 1982 của Liên Hiệp Quốc, mà theo
đó, mỗi một hòn đảo được tuyên bố chủ quyền, sẽ là một điểm như lãnh thổ đất liền,
mà dùng nó người ta tiếp tục phân định cột mốc biên giới quốc gia trên biển, đẩy
đường cơ sở ra rất xa và mở rộng vùng lãnh hải, cũng như làm cho vùng đặc quyền
kinh tế trở nên rất rộng lớn. Thế giới đứng trước nguy cơ ngày càng thiếu năng
lượng, nước phát triển càng “nóng” về kinh tế, thì càng thiếu năng lượng, nhất
là năng lượng hóa thạch.
Vì thế mà
tình hình căng thẳng tại các quần đảo nhỏ chi chít giữa các quốc gia xung
quanh, ngày càng tăng lên – và chỗ nào có Trung Quốc, thì căng thẳng lại càng ở
một mức độ cao hơn. Sức ép trong nước ngày càng lớn, thì thái độ của nhà cầm
quyền Bắc Kinh càng hung hăng rõ ràng hướng ra bên ngoài – điều này chúng ta đã
chứng kiến không chỉ một lần.
Hành động của
nhà cầm quyền Trung Quốc lần này ở Biển Đông, ngay từ khi theo dõi những thông
tin đầu tiên, chúng ta có thể đoán được rằng có vẻ họ hoàn toàn chưa có ý định
tiến sâu hơn theo hướng gây ra xung đột quân sự; chỉ là một giàn khoan, vi phạm
tuyên bố chủ quyền của Việt Nam; cùng với sự hộ tống và hành động khá bạo lực
nhưng lại nghiêng về khía cạnh đánh nhau vỉa hè, chợ búa; tức là dùng chân tay:
đâm húc, vòi rồng… và có vẻ, Hải quân hai nước vẫn đứng ngoài cuộc và kiềm chế.
Nhưng tại sao họ lại quyết định hành động như vậy vào thời điểm này?
Nhiều ý kiến
cùng thống nhất họ chọn thời điểm Việt Nam kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ là
thuận lợi cho họ - điều này khá dễ thấy. Nhưng tôi có cảm giác câu chuyện không
chỉ có thế. Chũng ta thử nhớ lại từ đầu năm đến nay, sự kiện nào là nóng nhất?
Về đối nội, tình hình Tây Tạng còn khá yên ả, phong trào tự thiêu của các vị sư
Tây Tạng giảm bớt đến mức hầu như không có, nhưng tình hình Tân Cương ngày càng
nóng. Đồng thời, Trung Quốc còn đang phải đối mặt với tình trạng phân hóa xã hội
giàu – nghèo ngày càng sâu sắc, thể hiện ra ở những vụ biểu tình gần đây của
người lao động ở một số thành phố miền duyên hải. Năm 2011 chính là năm có những
cuộc phản kháng của người dân khu tự trị Nội Mông hoặc ở Ô Khảm, Quảng Đông…
hay như sự tiếp tục đối kháng chính quyền của những người theo Pháp Luân Công,
đều là những bất ổn bên trong nội bộ Trung Quốc. Ở nội bộ của Nhà nước Trung Quốc,
những vụ án lớn gần đây như vụ Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang… chúng ta là người nước
ngoài khó đánh giá, nhưng có thể đoán lờ mờ đó cũng là những hoạt động đấu
tranh sắp xếp lại nội bộ những người cầm quyền – việc này cũng tiềm ẩn sự hỗn
loạn và đổ vỡ. Đáng chú ý là ba vấn đề lớn: Tân Cương, Nội Mông, Tây Tạng – là
những vấn đề không dễ giải quyết vì đó là mâu thuẫn giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa ly khai không thể được giải quyết – một mặt, nhà cầm quyền Trung Quốc hiện
nay không dễ gì từ bỏ, mặt khác, thì không thể dung hòa giữa quá trình Hán hóa,
sự thiếu tôn trọng văn hóa dân tộc và cao hơn cả là quyền dân tộc tự quyết.
Chính vì thế
mà Trung Quốc không thể công khai ủng hộ Liên Bang Nga trong những sự kiện ở
bán đảo Crưm trong thời gian vừa qua. Từ đầu năm 2014, sự kiện quốc tế đáng chú
ý nhất, chính là tình hình Đông Ucraina và bán đảo Crưm. Từ năm 1991 đến nay,
chúng ta quen nhìn thấy Liên Bang Nga như là một thực thể tiếp nhận tất cả các
di sản để lại của Liên Xô (cũ) trong quan hệ quốc tế mà quan trọng nhất là chiếc
ghế ở Liên Hiệp Quốc, đồng thời cũng là người tiếp nhận gần như tất cả sức mạnh
quân sự của Liên Xô (cũ). Chúng ta cũng quen với hình ảnh của một nước Nga ốm yếu
dưới thời Tổng thống Boris Yeltsin, rồi chuyển mình mạnh mẽ dưới thời cặp bài
trùng Putin – Medvedev. Nhưng rõ ràng, nước Nga chưa có được cái “tầm” của Liên
Xô (cũ) khi bàn tay vươn tới cả Caribe, Nam Mỹ hay Đông Nam Á và xa hơn nữa,
sang các nước Châu Phi. Cũng từ năm 1990, nước Mỹ với cuộc Chiến tranh Vùng vịnh
lần thứ nhất rồi hàng loạt các cuộc can thiệp, dù có danh nghĩa của Liên hiệp
Quốc hay không thì vẫn là nước Mỹ đóng vai trò chủ lực, đã dần chiếm vai trò độc
tôn của một thế giới đơn cực.
Trung Quốc
không thể đứng ngoài – vì nhãn quan nhìn thế giới tương lai của Trung Quốc, phải
là một thế giới đa cực, mà trong đó, Trung Quốc là một cực. Thực tế, cái mà họ
mong muốn không phải là một thế giới đa cực mà cực nào cũng như cực nào, mà chỉ
“đa vừa vừa” thôi, vài cực thôi, không quá ít như bây giờ, mà cũng không quá
nhiều. Họ cũng tự lượng sức của mình, nhưng mong muốn được trở thành một cực mà
xung quanh là các vệ tinh, từ các vệ tinh mang tính “huyết thống” như Hongkong,
Đài Loan, Singapore… (Ở đây tôi gộp cả các vùng lãnh thổ cùng với các quốc gia
có công nhận quốc tế) và cả các nước Đông Nam Á, Triều Tiên… cũng sẽ là vệ tinh
của họ. Chính vì thế, tiếp tục duy trì kiểu quan hệ nhiều mặt rất đối lập với
nhau về chính sách đối xử quốc tế, chính là một kiểu rất đặc biệt, kỳ lạ và khá
khó chịu của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Chúng ta thấy một nước Trung Quốc rất cần
các nhà đầu tư Nhật Bản, “rải thảm đỏ” nhưng mặt khác vẫn thấy Trung Quốc tranh
chấp ở ngoài Senkaku… chúng ta thấy luôn hô hào “thu hồi Đài Loan” nhưng chắc
chắn không bao giờ họ dùng quân sự để chiếm Đài Loan cả, vì đánh là tan nát hết…
Tháng Năm năm
2014, sau những sự kiện ở Crưm, bàn cờ địa chính trị thế giới ngoài mấy kỳ thủ
cũ kỹ, Hoa Kỳ, Liên Minh Châu Âu, đã xuất hiện thêm một đối thủ nặng ký: nước
Nga. Bằng những hành động nhanh chóng và kiên quyết của mình, nước Nga đã nói
lên với thế giới rằng: “I am back” – “Tôi đang quay trở lại”. Trung Quốc không
thể đứng ngoài. Tình hình Đông Ucraina – Crưm bất ổn, cả Châu Âu và Hoa Kỳ lúng
túng, bị động – và đây chính là thời cơ để Trung Quốc hành động mạnh mẽ hơn
hòng bước vào bàn cờ địa chính trị thế giới sâu hơn nữa.
Lần này họ
không chọn Philipines làm đối thủ, cũng không chọn Nhật Bản… cả hai nước vừa
đón tiếp Tổng thống Hoa Kỳ Obama xong. Obama bỏ qua Việt Nam, chứng tỏ còn khoảng
cách giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chưa xích lại gần được bao nhiêu. Chính vì thế, mà
họ chọn Việt Nam như là một chiêu của binh pháp Tôn Tử, “bỏ chỗ mạnh đánh chỗ yếu”
vậy. Một mũi tên gần như bắn ra trúng nhiều mục tiêu: đối phó – xoa dịu tình
hình trong nước; tiếp tục thực hiện kế hoạch chiếm đóng thực tế và khai thác
nguồn lợi kinh tế trên Biển Đông, thử thái độ của Việt Nam và quan trọng hơn cả
theo cái nhìn của tôi, đó vừa là câu trả lời, vừa là liều thuốc thử đối với
chính sách khu vực của Hoa Kỳ.
Cũng khá
nhanh chóng, họ nhận được sự tỏ thái độ khá rõ ràng của Hoa Kỳ trước sự việc
“giàn khoan HD981” lần này, và họ bắt đầu có hiện tượng xuống nước. Tên đã bắn
thì không thu về được, với chúng ta giàn khoan là “khủng”, nhưng với Trung Quốc,
chỉ là một hòn sỏi con con ném đi mà thôi. Chúng ta còn chưa biết họ sẽ tiếp tục
hành xử như thế nào, nhưng nếu tiếp tục căng lên, thì xung đột là không tránh
khỏi, (có thể chỉ là sự xung đột quân sự hạn chế và sẽ không được thừa nhận
chính thức của cả hai bên như trước nay đã diễn ra vài lần ở Trường Sa) nhưng
tôi tin lần này, chưa đến mức xung đột lớn để có thể dẫn tới chiến tranh…
Vậy đó, Trung
Quốc muốn làm “kỳ thủ thứ tư” không muốn đứng ngoài cuộc. Còn việc làm thế nào
để chấm dứt cái tình trạng chiếm giữ “de facto” của Trung Quốc ở Hoàng Sa, chuyện
quá lớn, tôi không dám lạm bàn.
Tham gia thảo luận trên Facebook tạiđây
Bài đăng trên "Tuần Việt Nam" tại đây (Ký bút danh Phúc Lai)
No comments:
Post a Comment