Piotr Đại đế |
Sau Thế chiến
thứ nhất, nước Đức đầu tiên ngấm ngầm tái vũ trang, và nhanh chóng trở thành nước
có lực lượng tàu ngầm (U-boat) lớn mạnh nhất thế giới. Cấu trúc của tàu vững chắc,
nhanh, mạnh, chế tạo tiêu chuẩn hóa nên giá thành hợp lý, lại hội tụ được nhiều
công nghệ hiện đại, nhất là thông tin liên lạc (máy mã hóa Enigma rất hiệu dụng
được sử dụng trên các tàu ngầm U-boat của Đức). Nhanh chóng, hải quân Đức làm
mưa làm gió, gây thiệt hại nặng cho hoạt động tiếp tế cho nước Anh từ Hoa Kỳ.
Thời gian trước
Đại chiến thế giới lần thứ nhất, đến cả thời gian giữa hai cuộc Thế chiến, nước
Pháp sa lầy trong những học thuyết quân sự cũ kỹ. Trên bộ, họ không đánh giá
đúng vai trò của binh chủng mới ra đời, lực lượng thiết giáp và say mê với học
thuyết chiến tranh trận địa với các pháo đài “bất khả xâm phạm”. Trên biển, họ
không quan tâm đúng mức tới phát triển hải quân. Còn người Anh thì lại có những
đam mê khác – năm 1906 người Anh hạ thủy chiếc thiết giáp hạm HMS Dreadnought, mà tên của nó đã được người
ta đặt cho cả một loạt lớp thiết giáp hạm “tiền dreadnought”, “dreadnought” và
“siêu dreadnought”. Thế chiến thứ nhất trên biển là cuộc chiến của các thiết
giáp hạm.
Song song với
sự phát triển của tàu ngầm, Hoa Kỳ quan tâm nhiều đến lực lượng không quân mới
ra đời, và cùng với tư tưởng phát triển một lực lượng Hải quân riêng biệt với
Quân đội (lục quân), Hải quân cũng phải có những binh chủng riêng của mình:
không quân, bộ binh, và sau này là lính đặc nhiệm hải quân (Navy SEAL). Tháng 9
năm 1921, thiết giáp hạm cũ của Đức SMS Ostfriesland (hạ thủy năm 1909) được
Hoa Kỳ thử nghiệm đánh chìm bằng bom từ máy bay, là minh chứng rõ ràng cho quan
điểm rõ ràng của họ: phát triển Hải quân tấn công, là phải từ trên không, tức
là vào thời điểm đó, học thuyết phát triển hạm đội của Hoa Kỳ phải lấy tàu sân
bay làm trung tâm, các thể loại tàu chìm tàu nổi khác, đóng các vai trò tác chiến
nhất định xung quanh trung tâm ấy. Như vậy, cuộc chiến tranh giành vị trí trung
tâm hạm đội đã ngã ngũ, tàu sân bay đã đoạt được vòng nguyệt quế từ tay thiết
giáp hạm. Người Anh không hề coi thường tư tưởng này, trong Đệ nhị Thế chiến đã
phát triển được một đội tàu sân bay có đến bảy chiếc, nhưng không phát triển được
một lực lượng hộ tống – bảo vệ thích đáng, nên chiếc HMS Glorious đã bị tuần dương hạm Đức đánh đắm
trong chiến dịch Na Uy năm 1940. Tuy nhiên, những kết quả sau đó khi Hải quân Đức
và Tây Ban Nha đều không có tàu sân bay và nhanh chóng thất thế, đã chứng minh
tư tưởng phát triển tàu sân bay là đúng đắn.
Một lực lượng
Hải quân thành công thời kỳ này là Hải quân Hoàng gia Nhật Bản, thể hiện ở đỉnh
cao chiến thắng Trân Châu Cảng năm 1941 trước Hải quân Hoa Kỳ. Điều này đã chứng
minh, Hải quân nước nào phát triển đúng mức tàu sân bay, sử dụng nó hiệu quả và
bảo vệ nó thật tốt trước sự tấn công của kẻ địch, Hải quân nước đó sẽ bá chủ mặt
biển. Việc đánh đắm chiếc thiết giáp hạm lớn nhất từng được chế tạo, chiếc
Yamato của Hải quân Hoàng gia Nhật Bản bởi máy bay từ tàu sân bay năm 1945 là
điểm cáo chung cho tất cả các loại tàu thiết giáp cỡ “khủng”. Chỉ còn có Hoa Kỳ
vào thời điểm hậu chiến, còn duy trì các thiết giáp hạm lớp Iowa (Iowa,
Missouri) vào vai trò hỗ trợ hỏa lực, nhất là việc tái vũ trang chúng bằng các
loại tên lửa hành trình và sử dụng đến tận Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất
1991.
Song song với
sự phát triển của tàu sân bay làm trung tâm của hạm đội, các kinh nghiệm thực
tiễn của cuộc Thế chiến lần thứ hai, đòi hỏi sự phát triển thích đáng của các
loại tầu hộ tống và cả làm nhiệm vụ tấn công: tuần dương hạm, khu trục hạm, tàu
hộ vệ tên lửa, tàu phóng lôi, chống tàu ngầm… Việc người Anh phát minh ra kiểu
tàu sân bay sàn phẳng đường băng chéo, cũng là một cải cách mang tính cách mạng,
nó giúp cho việc phóng và thu hồi máy bay dễ dàng hơn nhiều so với dạng tàu sân
bay mũi cong của Liên Xô cũ và sau này là Nga, dễ phóng nhưng khó thu hồi máy
bay.
HMS Queen 1839 |
Cuộc chiến
tranh Triều Tiên trong thập kỷ 1950 được gọi là “Chiến dịch tàu sân bay” cũng đủ
cho thấy vai trò của loại vũ khí này. Tuy nhiên tổn thất lớn nhất của lực lượng
tàu sân bay nói riêng, của Hải quân hay nói cách khác, của cường quốc biển lớn
nhất thế giới lại ở một chiến trường khác: chiến tranh Việt Nam. Trong cuộc chiến
tranh phá hoại của Hoa Kỳ vào miền Bắc Việt Nam cũng như hỗ trợ chiến trường
Nam Việt Nam, họ đã mất đến khoảng 900 chiếc máy bay hải quân cùng khoảng non
400 phi công.
Thế giới với
sự phát triển của khoa học công nghệ, nhất là của tác chiến điện tử, cũng đã
làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của hải quân. Cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh
lần thứ nhất chính là điểm mốc làm cho toàn thế giới bàng hoàng và đi đến một
cái nhìn khác về chiến tranh. Những phi vụ tấn công đất liền bằng máy bay phóng
từ tàu sân bay; những quả bom và tên lửa với độ chính xác kinh người và khả
năng xuyên sâu, sát thương khủng khiếp; những quả tên lửa Scud của người Iraq bị
tên lửa phòng không từ hạm đội hạ trên bầu trời Tel Aviv… chúng ta thấy rõ, để
trở thành vai trò cường quốc đại dương, nước Mỹ không chỉ là nước giàu nhất thế
giới, quan tâm phát triển hải quân nhất thế giới với một học thuyết đúng đắn,
mà là nước có trình độ học vấn cao nhất thế giới. Điều này chúng ta có thể thấy
dễ dàng, vì từng người lính đến sỹ quan chỉ huy trong hạm đội, ngoài việc có những
phẩm chất của người lính thông thường, phải là có những người có trình độ học vấn
nhất định đến rất cao, tiếp cận được với công nghệ tiên tiến và hiện đại. Đó là
những người lính “đắt giá” nhất thế giới. Đồng thời, sự phát triển của công nghệ
đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của vũ khí hải quân, từ các phần mềm thiết kế
vỏ tàu đạt hình dạng thủy động học tối ưu, công nghệ vật liệu bền, nhẹ, chống đạn
tốt, công nghệ tàng hình… đến sự phát triển của hỏa tiễn chống hạm và vũ khí
phòng không chống hỏa tiễn… làm thay đổi hẳn bộ mặt của hải quân hiện đại.
Việc nhiều quốc
gia cho tàu thương mại mang cờ khá thoải mái, cũng như sự ra đời các tập đoàn
xuyên quốc gia, đa quốc gia… làm cho con số thống kê đội tàu dân sự các nước,
trở nên giảm đi nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên, vẫn có những quốc gia phát triển mang
tính truyền thống, như Nhật Bản vốn có đội tàu thương mại và cả tàu cá, phát
triển thuộc hàng bậc nhất thế giới. Thế giới của thế kỷ 21 vẫn phải đối mặt với
nạn cướp biển, do đó ngoài những nhiệm vụ truyền thống, Hải quân các nước còn
có thêm nhiệm vụ phản ứng nhanh chống cướp biển, bảo vệ an ninh hàng hải, bảo vệ
đội tàu thương mại của quốc gia và quốc tế.
Hết phần 2
Đọc lại phần 1 tại đây
Đọc tiếp phần 3 tại đây
Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment