Vùng Trung
Đông của thế giới luôn luôn là điểm nóng trong lịch sử loài người hiện đại từ đầu
thế kỷ XX, chủ yếu là gắn liền với các quốc gia về nguồn năng lượng hóa thạch dầu
mỏ và khí đốt. Ở khu vực này có thể điểm mặt người Anh, người Pháp, người Đức
(nói riêng hay phe Trục trong Chiến thành thế giới lần thứ hai) Hoa Kỳ và từ
sau Chiến tranh, còn có cả người Nga (Liên Xô.)
Có thể nói thế
kỷ XX là thời gian thành lập nhiều quốc gia trong khu vực Trung Đông, của thế
giới Arab… vốn là những vùng ốc đảo có các quốc vương cai trị và ngăn cách nhau
bằng những vùng sa mạc rộng lớn. Chỉ khi tiềm năng dầu mỏ được phát hiện người
ta mới quan tâm đến “vàng đen” đằng sau những cồn cát – trước đó hầu hết những
cuộc chiến tranh trong khu vực là để giành nguồn nước, hay xung đột tôn giáo
thì nay đã thêm một mục tiêu mới, các giếng dầu.
Người Anh,
can thiệp vào tình hình của nhiều nước nhất trong khu vực Trung Đông và thế giới
Arab, như Aicập, Iran, Iraq, Transjordanie… vốn dĩ trước đây nước Anh có quyền
bảo hộ với nhiều vùng lãnh thổ từ cuối thế kỷ XIX, thì đến giữa thế kỷ XX đã dần
lùi bước. Đây là thời kỳ người ta mệnh danh là thời kỳ giành độc lập [1]. Aicập
giành thắng lợi hoàn toàn trước nước Anh năm 1947; Iraq giành thắng lợi một phần
khi bỏ hàng loạt quyền bảo hộ của nước Anh vào năm 1948; chỉ có ở Transjordanie
là Anh một mặt công nhận nền độc lập của nước này và vẫn đạt được một hiệp ước
liên minh 25 năm. Với người Pháp, họ là người yếu thế trong Chiến tranh nên từ
1944 đã bị giảm dần ảnh hưởng với hai lãnh thổ bảo hộ của họ là Syrie và Liban.
Chỉ có nhờ lãnh tụ kháng chiến Pháp Charles De Gaulle, người chủ trương trao lại
cho hai lãnh thổ này quyền độc lập, thì hai nước này cũng đã không rơi vào tay
Đế quốc Anh – Pháp và Anh đã trải qua nhiều cuộc đàm phán và cuối cùng cũng đạt
được thỏa thuận rút cả quân Anh lẫn quân Pháp khỏi khu vực…
Người Mỹ thực
sự chứng tỏ vai trò trong khu vực trong việc thành lập Nhà nước Do Thái vào năm
1948. Israel trở thành quốc gia của người Do Thái còn nhận được sự công nhận của
Liên Xô, thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc và cũng do những quan điểm bảo
vệ người Do Thái là nạn nhân bị tàn sát ghê gớm nhất do thảm họa phát-xít.
Từ đó, bản đồ
dầu mỏ thế giới thực sự định hình với các quốc gia “máu mặt” vùng Trung Đông –
thế giới Arab: Iran, Iraq, Saudi Arabia, Lybia, Các tiểu vương quốc Arab thống
nhất (UAE)… Nhà sản xuất truyền thống từ thế kỷ trước vẫn là Hoa Kỳ, đồng thời
có thêm Liên Xô, nước có những vùng dầu tiềm năng như Ajerbaizan, Kazakhstan
hay Biển Bắc.
Đến năm 1960,
khai thác dầu khí trên thế giới hầu hết do các Công ty Anh – Mỹ đảm nhiệm thông
qua các hợp đồng thuê mỏ dầu và thu tiền cho thuê mỏ (royalties), thỉnh thoảng
cũng có những cuộc đấu tranh, thậm chí xung đột vũ trang để định lại tiền thuê
mỏ này, như ở Mexico thời kỳ giữa hai cuộc Thế chiến, hoặc ở Iran thời
Mossadegh từ 1951 đến 1953. Nếu như người Venezuela đạt được thỏa thuận cho
thuê mỏ dầu là 50/50(%) vào năm 1948 thì cũng trong thời gian này, các nước
Trung Đông chỉ đạt được 12,5%. Chính sự bất bình đẳng đó đã dẫn đến quá trình sắp
xếp lại mọi thứ, từ việc loại dần quyền bảo hộ của đế quốc, điển hình là Anh quốc,
thành lập các quốc gia độc lập trong khu vực và sau này, tiến tới thành lập một
tổ chức đa quốc gia chung cho các nước xuất khẩu dầu mỏ.
Đặc điểm của
thời kỳ này là giá dầu mỏ được duy trì ở mức thấp, đã làm cho thế giới chuyển dần
sang dùng dạng năng lượng hóa thạch này.
NHU CẦU NĂNG LƯỢNG THẾ
GIỚI SO SÁNH THEO NĂM
|
|||
Nguồn năng lượng / năm
|
1950
|
1960
|
1972
|
Than đá
|
55,7%
|
44,2%
|
28,7%
|
Điện
|
6,5%
|
6,4%
|
6,9%
|
Tổng than đá + điện
|
62,2%
|
50,6%
|
35,6%
|
Dầu mỏ
|
28,9%
|
35,8%
|
46%
|
Khí tự
nhiên
|
8,9%
|
13,5%
|
18,4%
|
Tổng Dầu mỏ + khí tự nhiên
|
37,8%
|
49,4%
|
64,4%
|
Tổng cộng
|
100%
|
100%
|
100%
|
Như vậy từ chỗ
chỉ chiếm 1/3, dầu khí đã chiếm tỷ trọng 2/3 nhu cầu tiêu thụ năng lượng toàn
thế giới, đồng thời từ năm 1950 đến năm 1965, tổng lượng tiêu thụ năng lượng thế
giới cho tất cả các nguồn đã tăng gấp đôi, còn tính đến năm 1972 đã tăng gấp ba
lần.
Năm 1960 các
nước xuất khẩu dầu mỏ Iran, Iraq,
Kuwait, Saudi Arabia và Venezuela đã tiến hành cuộc đàm phán tại Bagdad (từ 10/9
đến 14/9 năm 1960) đi đến thành lập “Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa”
(OPEC), sau đó các nước Qatar (1961),
Indonesia (1962), Libya (1962), Các Tiểu Vương quốc Arab Thống nhất (1967),
Algérie (1969) và Nigeria (1971) lần lượt gia nhập tổ chức này. Mục tiêu thành
lập của tổ chức là thống nhất về chính sách cân đối cung cầu về dầu mỏ và khí đốt,
để đảm bảo thu nhập của các nước thành viên cũng như chủ động về giá dầu mỏ -
trên thực tế tạo ra khan hiếm hoặc dư thừa dầu mỏ một cách giả tạo để giữ độc
quyền trong lĩnh vực này, trong bài này chúng ta sẽ nghiên cứu vai trò của tổ
chức này trong các cuộc chiến dầu mỏ mà nước này sử dụng để chống lại nước
khác.[2]
Cuộc chiến đầu
tiên của OPEC là chĩa mũi nhọn tấn công về phía các công ty, tập đoàn dầu mỏ.
Việc đóng cửa kênh đào Suez bắt buộc các Công ty phải tăng kích thước tầu chở dầu
chẳng hạn, là một minh chứng cho cuộc chiến này. Đồng thời OPEC cũng rất hiệu
quả trong việc tăng tiền thuê mỏ - hội nghị tại Caracas (Venezuela) từ 9/12 đến
12/12/1970, OPEC đã thành công trong việc tăng tiền thuê mỏ dầu lên 55%. Mặc
khác OPEC đề ra mục tiêu tăng dần lượng giếng dầu được quốc hữu hóa trong các
quốc gia thành viên để giảm mức phụ thuộc tư bản nước ngoài. Algerie và Lybia
là hai nước rất thành công trong mục tiêu này. Năm 1971, Algerie tuyên bố quốc
gia chiếm 51% cổ phần trong các công ty dầu khí nước ngoài, vốn chủ yếu nằm
trong tay các Công ty Pháp. Năm 1973 Lybia cũng có tuyên bố tương tự.
Liên Xô là nước
có nhu cầu sử dụng dầu khí tăng khá nhanh: năm 1960 Liên Xô chỉ sử dụng 37%
hydrocarbon, thì đến năm 1975 là 63,7% (xấp xỉ nhịp độ của thế giới.) Liên Xô đồng
thời cũng là nước rất chủ động trong nguồn cung cấp vì là nước có tiềm năng lớn
trong trữ lượng dầu mỏ. Năm 1975, Liên Xô sản xuất được 490 triệu tấn dầu thô
và vượt Hoa Kỳ vốn là một trong những nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới thời
đó. Cũng năm đó người ta đánh giá trữ lượng dầu mỏ của Liên Xô là khai thác thoải
mái đến hết thế kỷ XX, thực tế nước Nga hiện nay cho thấy tiềm năng này là lớn
hơn rất nhiều.
Năm 1975 Hoa
Kỳ là nước sản xuất được 420 triệu tấn dầu thô, nhưng vì nhu cầu trong nước quá
cao nên năm này Hoa Kỳ nhập khẩu 40% lương tiêu thụ và đạt 50% vào năm 1980.
Cùng với Liên Xô, Hoa Kỳ là hai nước rất ít bị ảnh hưởng bởi “khủng hoảng năng
lượng.” Thập niên 1980 Việt Nam tham gia vào danh sách những nước xuất khẩu dầu
mỏ, thì cũng trong năm này Indonesia ra khỏi OPEC và trở thành nước nhập khẩu dầu.
Năm 1991 được đánh dấu với sự tan rã của Liên Xô, và trên bản đồ năng lượng thế
giới xuất hiện những nhà xuất khẩu dầu mới: Liên Bang Nga, Ajerbaizan,
Kazakhstan, Turmenistan, Uzbekistan.
Trong suốt mấy
thập niên, Hoa Kỳ đi từ nước sản xuất dầu truyền thống (từ thế kỷ XIX), giảm dần
sản lượng do có sự thay đổi chiến lược trong chính sách năng lượng, chuyển sang
trở thành nhà nhập khẩu dầu mỏ có hạng của thế giới. Tuy nhiên trong vài năm gần
đây, việc Hoa Kỳ thành công trong công nghệ khai thác dầu từ đá phiến theo
phương pháp khoan ngang, đã làm cho nước này giảm mạnh nhu cầu nhập khẩu dầu mỏ,
tạo điều kiện cho sự áp dụng chính sách thao túng giá dầu để “gây khó” cho các
nước dựa nhiều vào nguồn thu dầu mỏ này: Nga, Iran. Từ cú sốc giá dầu
2007-2008, giá dầu thế giới tiếp tục giữ ở mức cao trên 100 đôla Mỹ một thùng,
cho đến tận “Cuộc chiến giá dầu 2014” của Obama, chống lại nước Nga của V.
Putin. Một lần nữa cùng với Saudi Arabia, Hoa Kỳ của Obama lại sử dụng vũ khí dầu
mỏ. Chỉ từ tháng 6 năm nay giá dầu Brent còn ở mức 115 đôla một thùng, thì nay
giá chỉ còn phân nửa, chấp nhận bù lỗ cho các Công ty dầu đá phiến trong nước
có điểm hòa vốn là từ 70 đến 110 đôla một thùng. Nước Nga là nước có sản lượng
10,6 triệu thùng một ngày với điểm hòa vốn là khoảng 90 đôla, đứng trước những
khó khăn, mà như nhiều chuyên gia dự đoán, nền kinh tế nước này sẽ rơi vào suy
thoái trong năm tới.
Trước một tổng
thống Putin đầy quyết tâm, chắc chắn Hoa Kỳ và đồng minh sẽ phải tiếp tục cuộc
chiến giá dầu thêm một thời gian không ngắn nữa. Giá dầu thế giới trong năm
2015 còn tiếp tục giảm, điều này là có căn cứ. Ông Christof Rühl, nhà kinh tế
trưởng và Phó chủ tịch của Tập đoàn Dầu khí đa quốc gia BP đã thổ lộ sự cảm thấy
bất ngờ tích cực của giới chuyên gia. Đối với đá phiến dầu, họ cho rằng việc
khai thác ở Mỹ trong những thập niên tới sẽ giảm sút. Nhưng điều đó sẽ được bổ
sung từ các khu mỏ ở những nước khác, lượng bổ sung này sẽ cao hơn chứ không phải
chỉ cân bằng. Theo tính toán của BP, đến năm 2030, khai thác dầu từ đá phiến sẽ
đạt khoảng 7% so với tổng sản lượng dầu mỏ nói chung của thế giới.
[1] Việt Nam
là một trong những nước giành độc lập sớm trong giai đoạn này.
[2] Theo lịch
sử tóm tắt của OPEC
_______________
_______________
Tài liệu tham khảo:
1. “Lịch sử
quan hệ ngoại giao từ 1919 đến nay” – Jean Baptiste Duroselle, những người dịch
Lưu Đoàn Huynh, Quách Ngọc Bảo; bản xuất bản của Học viện Quan hệ quốc tế (nay
là học viện Ngoại giao), 1994. Có tham khảo thêm bản pdf “Histoire diplomatique
de 1919 à nos jours” Paris, Dalloz, 1974, 871 trang.
2. Các bài viết
trên các báo, trang web: Website chính thức của OPEC (Opec.org), Telegraph,
Stanford.edu, Brookings.edu, New Scientist, v.v…
Hết phần 1
Đọc tiếp phần 2
Đọc tiếp phần 3
Bài trên "Tuần Việt Nam" (bút danh Phúc Lai) tại đây
Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment