Đến đây,
chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại một số cuộc chiến giá
dầu, tạo nên những “cú sốc dầu mỏ” mà thế giới đã gặp trong khoảng bốn mươi
năm.
“Cú sốc dầu
mỏ lần thứ nhất”
Ngày
6/10/1973 nhằm lễ Kippour của người Do Thái (Ngày sám hối và xá tội), nhiều đơn
vị quân đội Ai Cập (quân nhảy dù, 8000 bộ binh, 100 xe tăng) vượt kênh đào Suez
và chỉ hôm sau 5 sư đoàn Ai Cập đã tiến vào bán đảo Sinai trên một chính diện rộng
180km. Cùng thời điểm, quân đội Syrie có hỗ trợ của quân Iraq, đã tiến vào vùng
chiếm đóng của quân đội Israel của Golan, chiếm đồi Herman và thành phố
Kuneitra. Tình hình căng thẳng chưa dịu đi từ cuộc “Chiến tranh 6 ngày”[1], lại
bị khuấy lên bởi sự kiện ngày 21/2/1973 một máy bay dân dụng của Lybia bị không
quân Israel bắn rơi tại bán đảo Sinai [2]. Từ 8/10 quân đội Israel đảo ngược
tình thế ở cao nguyên Golan, chiềm lại toàn bộ cao nguyên và tiến đến chỉ còn
cách thủ đô Damas của Syrie có 30km. Tại mặt trận Sinai, họ tiến chậm hơn và đến
đêm 14 rạng sáng 15/10 họ mới vượt được kênh đào Suez với lực lượng mạnh. Cuộc
chiến kéo dài trong vòng 3 tuần, đến ngày 23/10 thì quân đội Israel đã ngừng bắn
hẳn sau khi đã giành được những thắng lợi đáng kể: phía Tây họ chỉ còn cách thủ
đô Cairo của Ai Cập 70km, phía bắc họ tiến đến ngoại ô của thành phố Ismallia.
Cùng ngày, Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc theo đề nghị của Liên Xô và Hoa Kỳ đã
ra nghị quyết số 339 yêu cầu các bên ngừng bắn, rút quân về vị trí ban đầu. Các
bên đều chấp thuận nghị quyết này.
Ngày 16/10,
năm nước Abou Dhabi, Iran, Iraq, Koweit, Qatar và Saudi Arabia đã họp tại
Kuweit để tăng giá dầu thô từ 3,0001 USD lên 5,119 USD một thùng. Hôm sau chính
các nước này, chỉ trừ Iran, tuyên bố tiến hành một “cuộc chiến dầu mỏ” chống
Israel. Họ dự tính sẽ tuyên bố trước hết sẽ cấm vận dầu mỏ trước hết là Hoa Kỳ,
Hà Lan; sau đó là các nước Bồ Đào Nha, Rhodesia và Nam Phi. Ngoài ra họ cũng
quyết định hạn chế xuất khẩu dầu 5% sang các nước bị coi là “không thân thiện”.
Trong số các nước Phương Tây, Pháp không bị coi là nước “không thân thiện” nên
không bị áp dụng hạn chế này. Thái độ của nước Pháp trước những diễn biến của
cuộc “Chiến tranh Kippour”, ngày 8/10 Bộ trưởng Ngoại giao Pháp đã phát biểu:
“Có lẽ nào những cố gắng đặt chân lên đất nước của mình lại bị coi là xâm lược
bất ngờ?”
Tuyên bố cấm
vận được phát ra sau đó nhưng nhanh chóng tỏ ra ít hiệu lực. Lệnh cấm vận đối với
Hoa Kỳ được bỏ vào tháng 3/1974; đối với Hà Lan được bỏ vào ngày 11/7 cùng năm.
Thực ra trước đó tại Tehran từ 22 đến 24/12/1973 các nước OPEC đã họp và thống
nhất tăng giá bán dầu lên mức 11,651 đôla từ 1/1/1974, nghĩa là gấp 4 lần thời
điểm tháng 10/1973. Liên Xô là nước ủng hộ quyết định này của OPEC, vì cũng đã
là một nước xuất khẩu dầu và chuẩn bị trở thành thành viên của tổ chức này; đồng
thời Liên Xô tìm thấy trong hành động này là “hành động chống chủ nghĩa đế quốc”.
Đây là lần đầu tiên nước nước kém phát triển tìm thấy thế mạnh của mình chống lại
các siêu cường.
Kinh tế Hoa Kỳ
bị ảnh hưởng mạnh trong giai đoạn này, đồng đôla hai lần sụt giá, một lần vào
tháng 8/1971 và lần thứ hai tháng 2/1973. Những nỗ lực của các nước phát triển
nhằm cải thiện tình hình vào năm 1975 không có kết quả. Henry Kissinger là người
có nỗ lực rất nhiều trong những hoạt động này, mà một sự kiện quan trọng là việc
thành lập tổ chức của những nước tiêu thụ chính “Cơ quan năng lượng quốc tế”
(AIE), gồm 9 nước thị trường chung Châu Âu EC trừ Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Canada, Thụy Điển, Áo và Thổ Nhĩ Kỳ.
Tổng thống
Pháp Giscard D’Estaing chống lại việc này, ông cho rằng đó là hình thức “cartel
của những nước tiêu thụ dầu”; do đó tháng 4/1975 ông đề nghị tổ chức một hội
nghị năng lượng giữa những nước sản xuất và những nước tiêu thụ dầu. Cuộc họp
trù bị đầu tiên được tiến hành ở Paris ngày 7/4/1975 nhưng thất bại. Các nước
AIE thì muốn hội nghị chỉ tập trung vào những vấn đề năng lượng, còn các nước
OPEC thì còn muốn mở rộng sang các vấn đề về nguyên liệu, cải cách hệ thống tiền
tệ quốc tế và vấn đề phát triển.
Từ 16 đến
18/12/1975, vẫn tại Paris một Hội nghị nữa được tổ chức giữa 7 nước OPEC, 12 nước
kém phát triển hoặc ít xuất khẩu dầu mỏ: Ấn Độ, Pakistan, Ai Cập, Nam Tư,
Camerun, Zaire, Zambia, Arhentina, Brasil, Mexico, Peru, Jamaica và 8 nước công
nghiệp, trong đó EC chỉ có một đại biểu. Vì không thống nhất được về chương trình
nghị sự, nên hội nghị này cũng lại thất bại. Nước Pháp đã cố gắng tìm được một
giải pháp thỏa hiệp giữa các nước công nghiệp và các nước đang phát triển bằng
cách sử dụng những đồng “đôla dầu mỏ” để tài trợ phát triển của “Thế giới thứ
ba”, dưới sự bảo đảm của Ngân hàng thế giới, nhưng vấp phải sự phản đối của Hoa
Kỳ. Từ 3 đến 31/5/1976, một hội nghị nữa được tổ chức ở Nairobi (Kenya) cũng
không thành công.
Do không đạt
được những thỏa thuận toàn cầu và việc tăng giá lên rất cao so với mức cũ của
các nước OPEC, đã ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển của kinh tế thế giới. Anh,
Italia có tốc độ lạm phát hàng năm 20%. Các nước công nghiệp phát triển đều đứng
trước khó khăn giá dầu tăng cao, buộc phải thi hành chính sách “thắt lưng buộc
bụng.” Có thể kể ra các nước như Anh, Đức, Nhật Bản… đều phải áp dụng phương án
này. Pháp, thi hành “Kế hoạch Barre” từ tháng 10/1976 cũng có vẻ có hiệu quả.
Ba nước Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản áp dụng thành công chính sách khắc khổ nên duy
trì được mức lạm phát 6%. Song hành với lạm phát là nạn thất nghiệp đạt mức 6% ở
cả Hoa Kỳ lẫn Châu Âu.
Với những nền
kinh tế kém phát triển lại không sản xuất dầu mỏ thì thực là khó khăn không thể
chịu nổi, “cú sốc dầu mỏ” này đã dẫn tới thâm hụt cán cân thanh toán của các nước
này đến 9 tỷ đôla năm 1973 và tăng lên tới 35 tỷ đôla năm 1975.
Ngay sau “Cú
sốc dầu mỏ lần thứ nhất”, các nước OPEC đã nhận ra “vũ khí dầu mỏ” là con dao
hai lưỡi vì một khi giá dầu tăng quá cao, thì người ta sẽ dồn sang sử dụng các
dạng năng lượng khác. Đồng thời qua những lần giá dầu tăng, thế giới cũng có những
thay đổi rất lớn. Các nước xuất khẩu dầu dùng lợi nhuận thu được từ dầu mỏ để
tái đầu tư công nghiệp hóa, làm tăng mức độ công nghiệp hóa toàn cầu. Các nước
công nghiệp phát triển mỗi khi đối mặt với giá năng lượng cao, lại tìm cách
chuyển sản xuất ra các nước có mức độ công nghiệp hóa thấp hơn, nhưng có ưu đãi
lớn hơn về thuế và giá nhân công rẻ… đó chính là nguyên nhân xuất hiện của hàng
loạt các “con hổ” “con rồng” như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Thái Lan... Và
quan trọng nhất là con người với sự tiến bộ của công nghệ, ngày càng muốn tìm
ra những nguồn năng lượng “xanh” mới, những thiết bị đầu cuối “xanh” tiết kiệm
nhiên liệu để ngày càng giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch và đối phó với
biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường trái đất.
[1] Cuộc chiến
tranh từ 5/6 đến 10/6 năm 1967 giữa Israel với Ai Cập và Syrie kết thúc với thắng
lợi của Israel.
[2] “Những vụ tai nạn máy bay nghi bị bắn chấn động” – Phúc Lai hoặc tại đây
_____________
Theo các tài liệu:
1. “Lịch sử
quan hệ ngoại giao từ 1919 đến nay” – Jean Baptiste Duroselle, những người dịch
Lưu Đoàn Huynh, Quách Ngọc Bảo; bản xuất bản của Học viện Quan hệ quốc tế (nay
là học viện Ngoại giao), 1994. Có tham khảo thêm bản pdf “Histoire diplomatique
de 1919 à nos jours” Paris, Dalloz, 1974, 871 trang.
2. Các bài viết
trên các báo, trang web: Website chính thức của OPEC (Opec.org), Telegraph,
Stanford.edu, Brookings.edu, New Scientist, v.v…
Hết phần 2
Xem lại phần 1 tại đây
Đọc tiếp phần 3 tại đây
Bài trên "Tuần Việt Nam" (Bút danh Phúc Lai) tại đây
Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment