Tưới hoa ở Tây Tựu |
Cuối những
năm 70 đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, mình học ở trường Trưng Nhị, là nơi
“tụ tập” của các lớp chuyên văn và toán của Quận Hai Bà Trưng. Các bạn của cả
Quận tụ về học cùng, từ “lề trên” như những phố Lê Văn Hưu, bên này của Nguyễn
Du… đến “biên dưới”, các bạn tận Đuôi Cá Trương Định… đều học cùng cả. Bây giờ
thì Đuôi Cá chỗ nhà các bạn ấy, đã là sang quận khác, quận Hoàng Mai. Rồi là
các bạn trong khu tập thể Bách Khoa kéo ra học cùng, cá biệt còn có bạn ở xa lắm:
Thanh Xuân, và có bạn bên Kim Liên sang, đã là Quận Đống Đa rồi. Còn bạn nữa
chuyển nhà lên tận gần Cầu Giấy, xa hãi hùng luôn.
Tất cả họ, đều
phải đi qua một cửa ô nào đó để đến trường. Mình dân phố Huế, gần một cửa ô nhiều
người nhớ tên: Ô Cầu Dền. Ngay tuần trước trên ti-vi có trò chơi truyền hình gì
đó (“Chiếc nón kỳ diệu” thì phải), một bác người chơi nói “Tôi ở Hà Nội mấy chục
năm, chỉ nhớ có ô Cầu Dền!” nghe mà sướng hết cả người, đấy, quê hương nổi tiếng
thế đấy. “Dân Ô Cầu Dền” thì đông, cả mấy phường: Phố Huế, Thanh Nhàn, Bạch
Mai, Lê Đại Hành. Các bạn học cùng một hội đông nữa bên phía cửa đằng kia của
thành phố: Ô Đống Mác, hồi đó cứ trêu nhau: “Chúng mày nhà ở Ô đống rác”, là bực
bội lắm. Nhưng cũng rất thú vị, là tất cả các bạn, kể cả sau này quen các bạn
nhà bên Ô Chợ Dừa hay Ô Quan Chưởng, hầu như đều gọi chỗ có cửa ô là “Đầu Ô” cả.
Từ “Đầu Ô” bây giờ nghe lạ lẫm, nhưng hồi đó là không hề hiếm gặp, (giống như
bây giờ hay nói: chỗ “đầu dốc” ấy mà), nhưng chỉ Hà Nội mới có cửa Ô, nên “Đầu
Ô” là một từ, “rất Hà Nội”.
Một lần cậu bạn
đến chơi, bà ngoại mình hỏi nhà cháu ở đâu? – “Nhà cháu bên tập thể Kim Liên bà
ạ!” “Ôi xa thế hả cháu? Đi sang đây phải đi qua cả đường tàu. Nhà cháu là bên Ô
Đồng Lầm đấy.” Thế là cái đầu óc non nớt của hai chú nhóc 10 tuổi có thêm một cửa
ô nữa, Ô Đồng Lầm, (nghe nó cứ “lầm than, lầm lũi” thế nào ấy, hồi đó cứ cảm
giác thế). Đọc truyện Hà Nội xưa, thì chỗ Đại học Bách Khoa hiện nay, trước đầu
tiên được xây thành khu “Việt Nam học xá”, bên kia đường cái là Bệnh Viện Bạch
Mai, còn xa hơn tí nữa, là khu Sân bay Bạch Mai. Giữa các khu này, là cánh đồng,
là ao chuôm, ếch nhái ộp oạp chứ không đông chật nhà cửa như bây giờ. Những
ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, bộ đội du kích từ Sân bay Bạch Mai mà về Việt
Nam học xá để vào các làng gần gần khu Ô Đồng Lầm như làng Kim Hoa, hay các xóm
quanh hồ Bảy Mẫu bây giờ, như xóm Vân Hồ… là cả một khó khăn nguy hiểm lớn.
Ngày nay chúng ta đi thấy gần tẹo, nhưng hồi đó, có khi ngoài ao chuôm là cả một
hệ thống đồn bốt, tháp canh… của Pháp không chừng.
Ngày xưa, đi
hết “phố đèn đỏ” ả đào, cô đầu Khâm Thiên, đến Ô Chợ Dừa, đã là hết đất Hà Nội
rồi, ngoài đó trở đi, là đất của Hà Đông Tỉnh. Cũng chính vì thế mà lăng Hoàng
Cao Khải ở Ấp Thái Hà, nay trong lòng Hà Nội. Một người Hà Nội rất am hiểu, có
nhiều bài viết về Hà Nội, anh Văn Thành Nhân nói với mình, rằng chỉ cách đây
vài năm đến nhà bạn ở Ngã Tư Sở chơi – nhà anh này ở đó lâu đời rồi, mẹ anh ấy
vẫn gọi “Này, có các anh chị “ngoài Hà Nội” vào chơi!”.
Bây giờ chúng
ta cứ tạm hình dung các cửa ô Hà Nội chính là các lối để đi vào thành phố xưa,
nó gắn chặt với các hoạt động kinh tế xã hội của đô thị thời đó – bám vào các
con đường đê cũng là mạch huyết giao thông quan trọng. Ô Yên Phụ, để bà con các
làng hoa từ Tây Tựu xuống đến Nghi Tàm, Quảng Bá… mang hoa vào phố bán… thì mới
có “Lũy Hoa” của Nguyễn Huy Tưởng. Ô Quan Chưởng nay vẫn còn cái cổng, ba chữ
“Đông Hà Môn” đã đủ để chúng ta hình dung cảnh trên bến dưới thuyền, thời mà xe
cộ chưa mấy phát triển thì đường sông cũng là phương tiện vận tải quan trọng. Cứ
thế mà chạy theo đường đê xuống tít dưới Lĩnh Nam, bà con các vùng quê Bát
Tràng chở gốm, Hưng Yên chở nhãn lồng, Hải Dương chở vải thiều… qua biết bao bến
đò ngang sông Hồng mà sang Hà Nội, qua Ô Đống Mác mà vào phố, tỏa đi khắp các
chợ. Tất nhiên, trung tâm buôn bán vẫn là khu Đồng Xuân, Bắc Qua… của Ô Quan
Chưởng, chẳng khu vực nào có thể “tiếm ngôi” được.
Cũng qua các
cửa ô, mà hàng hóa các làng nghề Hà Nội đi khắp các tỉnh, làng Ngũ Xã đúc đồng,
làng Làng giấy dó Yên Thái và biết bao ngành nghề tinh hoa hội tụ nơi kinh kỳ.
Hồi nhỏ có cuốn
truyện tranh gì quên mất, trong đó nhắc chuyện “tên” quan năm Pháp Henri
Rivière chết trận khi giao tranh với quân Cờ Đen ở Cầu Giấy, mà sau này đọc nhiều
tài liệu, sách vở… còn gọi là “Ô Cầu Giấy”. Mãi gần đây khi xe trên wikipedia
tiếng Việt (từ khóa “Cửa Ô Hà Nội wiki”) mới thấy liệt kê, ngoài cả hai chục cửa
ô [1] nay không được dùng, những cửa ô thường dùng nhất của Hà Nội nay vẫn còn có
sáu cửa ô: ô Yên Phụ, ô Quan Chưởng, ô Đống Mác, ô Cầu Dền, ô Đồng Lầm, ô Chợ Dừa.
Chuyện với anh Văn Thành Nhân, nhận ra rằng Cầu Giấy đi vào thành phố qua ngả
Kim Mã – Nguyễn Thái Học, hồi đó là làng Thủ Lệ, đi qua trước đền Voi Phục,
cũng nên tính là một cửa ô. Rõ ràng là Wiki, nhất là Wiki tiếng Việt “ai cũng sửa
được”, chỉ nên tham khảo và rất nên kiểm tra thêm các nguồn khác.
Gà quê bán ngay ở phố Đinh Lễ |
Vì nếu ngày
10 tháng Mười năm 1954, các đoàn quân tiến về tiếp quản thủ đô theo “năm cửa Ô”,
thì qua các cửa ô từ mọi hướng xung quanh thành phố mà vào, từ chiến khu Việt Bắc
mà về, chắc đi qua cầu Long Biên qua Ô Quan Chưởng, chính chiếc cầu mà “những
người lính Pháp cuối cùng đi qua cầu rút khỏi Hà Nội xuống Hải Phòng”; còn từ
các vùng như Phú Thọ, Sơn Tây… bộ đội đi vào theo đường Cầu Giấy, qua Kim Mã,
Nguyễn Thái Học mà vào chứ. Lại nói hướng phía tây thì từ Hòa Bình, dưới Vân
Đình, Miếu Môn qua Hà Đông, đến cửa ô Chợ Dừa; Cầu Dền, ô Đồng Lầm tiếp các đoàn quân từ
phía Nam theo quốc lộ Bắc Nam mà hành quân vào… Rất xứng đáng bổ sung thêm, Ô Cầu
Giấy cho các cửa ô của Hà Nội. Tất nhiên trên thực tế thì bộ đội ta vào tiếp quản
Thủ đô ngày 10 tháng Mười năm 1954 thì không phải là năm cửa ô [2]. Nhạc sỹ Văn
Cao khi sáng tác bài “Tiến về Hà Nội” đã so sánh, năm cửa ô như năm cánh sao
vàng (có nguồn nói là năm ngón tay) đón các đoàn quân tiến vào giải phóng thủ
đô, một hình ảnh đẹp. Chính hình ảnh đó sau này, vào bài hát “Hà Nội niềm tin
và hy vọng” của Phan Nhân, nó đã lên một tầm cao mới “Đường lộng gió thênh
thang năm cửa ô, nghe tiếng cười không quên niềm thương đau…” Người Hà Nội hôm
nay ra đi, mang theo mình bao nhiêu nỗi nhớ, những ánh đèn qua ô cửa sổ…
Hà Nội mùa
thu của nắng vàng lá rụng và những cơn gió heo may xào xạc, “người ra đi đầu
không ngoảnh lại, sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”, nhưng người Hà Nội lại về, để
Hà Nội đó, năm cửa ô, bảy cửa ô và nay nhiều cửa ô, vẫn ngày ngày sầm uất người
xe, xa một ngày, đã thấy nhớ, Hà Nội ơi!
Các chú thích của "Tuần Việt Nam" làm hộ:
[1] Theo nhà
Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, sách Bắc thành địa dư chí (tờ 3a) soạn vào những
năm đầu thế kỷ XIX cho biết là Hà Nội có 21 cửa ô. Song cách này lại không kể đủ
tên các ô đó. Phải đợi đến năm 1831 thì mới được ghi chép cụ thể. Trong bản đồ
dựng năm này có ghi lại vị trí và tên gọi của 16 cửa ô. Nhưng đến năm 1866 thì
thấy mất một cửa ô.
[2] Trên thực
tế, nhà sử học Lê Văn Lan trong bài viết Những cửa ô nào của Hà Nội đã đón quân
ta trở về ? (QĐND, 11/10/2013), cho hay chung cuộc và thực tế, trong ngày giải
phóng Thủ đô 10-10-1954, quân ta chỉ dùng (tiến qua) hai (2) cửa ô trong số các
cửa ô của Hà Nội xưa. Chỉ có hai (2) cửa ô xưa của Hà Nội là: ô Cầu Giấy (ô
Thanh Bảo) và ô Cầu Dền (ô Thịnh Yên, ô Yên Thọ)-đã vinh dự và tưng bừng đón
quân ta trở về.
Bài trên "Tuần Việt Nam" ở đây
Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment