Nguyễn Tuân (1910 - 1987) |
Khi viết bài “Người Hà Nội kiêu bạc” thật là cũng không chú ý tại sao lại dùng từ “kiêu bạc” trong
ngữ cảnh đó, hôm nay có một bác có tuổi đang sống ở nước ngoài hỏi, mình mới để
ý, thật đúng là sơ suất và rất thiếu sót. Vậy thì phải chăng mình đã hiểu hết
được tiếng Việt? Chắc chắn là chưa và sẽ không bao giờ hiểu hết được, mỗi hôm một
bài học mới.
Cứ ngẫm mãi,
rằng từ đó ở đâu ra và tại sao mình lại dùng từ đó. Và cũng lại sực nhớ ra rằng
khi học tiếng Hán, mình chưa chú ý từ “kiêu”, và cũng chưa bao giờ tra từ điển
tiếng Việt xem “kiêu” là gốc Hán hay thuần Việt. Trong cuốn từ điển tiếng Việt
mình có, bản của Nhà xuất bản khoa học xã hội 1977, từ “kiêu” được liệt kê tại
ba mục từ cuối trang 441 đến năm mục từ đầu tiên trang 442, bắt đầu từ “kiêu”,
liệt kê các loại “kiêu”: kiêu binh (binh sỹ ngang ngạnh tự phụ về thành tích của
mình), kiêu căng (lên mặt tài giỏi, khinh người), kiêu dũng (khỏe mạnh, nhanh
nhẹn), kiêu hãnh (như kiêu căng), kiêu kỳ (lên mặt làm cao, làm bộ), kiêu ngạo
(kiêu căng). Riêng có một chữ “kiêu” có nghĩa là “cao” (cổ kiêu ba ngấn).
Như vậy hầu hết,
các chữ “kiêu” trong tiếng Việt, có nghĩa xấu, là khinh người, tự cao tự đại.
Tra từ điển Hán Việt thì từ “kiêu” – chữ 骄, phồn thể viết (驕), bính âm [jiao] có
hai nghĩa: (1) Kiêu ngạo và (2) Gay gắt, mãnh liệt. (Từ điển Hán Việt của
Trương Văn Giới và Lê Khắc Kiều Lục, trang 411 mục từ cuối.) Đáng chú ý riêng từ
“kiêu ngạo” [jiaoào] có hai nghĩa chính (1) Kiêu ngạo và (2) Tự hào, niềm tự
hào. Từ “kiêu mạn” [jiaomàn] cũng là chữ “kiêu” này.
Nếu học Phật
thì sẽ thấy có một trong những điều phải tránh, đó là “ngã mạn”, về ý nghĩa của
khái niệm này còn sâu sắc hơn chuyện “kiêu mạn” một chút, “kiêu” thì có một cái
gì đó chưa hẳn là xấu, rõ ràng là không tốt, nhưng chưa xấu hẳn, nó có cái gì
đó hơi nông nổi, bề ngoài, hời hợt. Nhưng trong Phật pháp nói “ngã mạn” là đã
có sự thể hiện “bản ngã” của mình, cái “kiêu” nó xuất phát từ việc coi “cái tôi”
của mình quá lớn.
Vậy thì từ “kiêu
bạc” ở đâu ra? Chắc chắn mình phải học được ở đâu đó, chịu ảnh hưởng của ai đó
chứ sức mấy mà nghĩ ra được. Ngẫm lại, trải qua bao năm “mọt sách” cái món “văn
chương” nó ngấm vào mình từ hai nguồn: Tô Hoài và Nguyễn Tuân. Tô Hoài, mình
thích sự hóm hỉnh của ông ấy, còn ở Nguyễn Tuân, sự tinh tế, sâu sắc, sang trọng
trong tu từ…
Nguyễn Tuân với
mình có một cái gì đó rất tuyệt vời, không quá phô trương, nhưng hơi cao sang một
chút, hơi “kiêu kỳ” một chút.
“Tôi sang một tập khác tiêu biểu cho cái cá nhân chủ nghĩa đến cao độ của tôi. Tập “Nguyễn” in sau ngày Tổng Khởi Nghĩa. Nguyễn là nhân vật duy nhất của tập truyện. Tôi tự suy tôn qua mọi hành động ích kỷ và tàn nhẫn kiêu bạc của Nguyễn. Nguyễn cho sống là thể hiện cái cá nhân mình là dựa cái cốt cách phong kiến suy tàn của mình vào con đường phiêu lưu chủ nghĩa siêu nhân của Nietzsche và con đường cá nhân phiến loạn hành động không lý do của Gide. Nguyễn cho cuộc đời nghệ sĩ là đứng trên cái thiện ác của sự sống hàng ngày…”
(Trích tự bạch của Nguyễn Tuân thời
1957, thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam, các văn nghệ sỹ đều phải tự kiểm thảo
như vậy, một hình thức “Cải cách ruộng đất” trong văn nghệ.)
Chắc chắn,
mình học được từ “kiêu bạc” ở “Nguyễn” của Nguyễn Tuân, và sau này những hình ảnh
của Nhật Tân trong “Sống mãi với Thủ đô” (Nguyễn Huy Tưởng), những hình ảnh “người
ra đi đầu không ngoảnh lại, sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…” đã gắn với người
con trai Hà Nội trong mình, đó là thế hệ của cha chú mình, của ông mình…
Một Hà Nội mùa đông đẹp "rung rị", nhầm, giản dị Ảnh: Nguyễn Cảnh Tùng |
Hôm nọ ngồi
nói chuyện với “hai ông anh”, các anh nhắc đến hình ảnh các “cao bồi già” và “bộ
đội già” của Hà Nội. Những hình ảnh đó cũng có một phần nào của “kiêu bạc”. Như
vậy khi dùng “kiêu bạc” Nguyễn Tuân đã nhặt ra cái nghĩa “không xấu” của từ “kiêu”
gốc Hán, một từ chắc chắn là “cực kỳ Hà Nội”, của người Hà Nội không bon chen,
ý thức được những giá trị riêng của mình và trước sự xâm lấn xô bồ, người Hà Nội
cũng không phản ứng gay gắt, mà lặng lẽ nhiều hơn…
Trân trọng gửi
sự kính trọng của tôi tới tất cả những người “trai phố”, từ già đến trẻ, từ đã
biết đến chưa biết. “Gửi về anh, người trai Hà Nội…”
Tham gia thảo
luận trên Facebook tại đây
Sau khi viết xong bài này, trong các phản hồi trên Facebook có một comment rất hay:
ReplyDelete“Theo tôi chữ kiêu thì các bác giải thích rõ rồi, còn chữ "bạc" nghĩa là "mỏng" gần giống trong từ "khinh bạc". Nói chung là kiêu một chút, khinh một chút, coi mọi thứ đều mỏng mảnh thôi không có gì đáng để ý cả.”
Chữ “bạc” [ 薄 bó] có các nghĩa (1) Nhỏ bé, ít ỏi (2) Bạc bẽo (3) Khinh, xem thường (4) Kề sát (5) Họ Bạc (Bạc Hy Lai). Trong các nghĩa từ ghép thì chữ “bạc” còn có nghĩa là “mỏng, độ dày.” (Sách đã dẫn, trang 54) Việc giải nghĩa “kiêu bạc” đã rõ hơn, một chút kiêu thôi, ngầm kiêu, vẫn có khiêm tốn chứ không hẳn là kiêu căng.
Đúng là mỗi hôm một bài học, cuộc sống thật là thú vị.