Hồi học đại học,
với hầu hết mọi người, triết học là môn học “khoai”, “xương xẩu”, học khó vào,
và thi cử là một thảm họa. Mình cũng vậy, bắt đầu học triết cũng thấy thế -
trong khi ông bạn thân ngồi nghe thày giảng mồm cứ há hốc ra, nuốt ừng ực từng
lời của thày. Một phần vì hồi đó cậu ta nghiên cứu “Nho nhe”, phần khác (phần
này là nghi ngờ thôi nhé), hắn ta đang yêu, và ngồi cạnh bạn gái trong lớp thì
có khi phải lấy le bằng… triết học, he he…
Ngay cả khi
ngồi “đàm đạo” với các sinh viên chuyên ngành triết học, mình cũng thấy rất…
ong thủ. Ông nào giỏi, nói y như sách, hỏi cái gì, tuôn ra cái í, làu làu, làu
làu… và nếu hỏi cái khác, ông ta lại tuôn ra một đoạn khác trong sách. Kiểu “thày
Gu-gồ” đó, bây giờ có internet tìm thông tin còn thích hơn. Còn những ông nào
lơ tơ mơ (sinh viên lơ tơ mơ ở ta bây giờ hoàn toàn không hiếm) thì nắm triết học,
không khác chúng ta là mấy. Nhìn chung là thất vọng.
Thế mà người
ta cứ bảo “triết học là khoa học của các môn khoa học”. Học ốm xác, khó hiểu thấy
bà nội mà khoa học cái gì chứ!
Về sau mình
phát hiện ra, học triết học với sinh viên không chuyên ngành triết học như
mình, khỏi cần học nhiều. Chỉ cần học kỹ phần “Những vấn đề cơ bản của triết học”
là đủ, còn lại, đọc hiểu đến đâu tốt đến đó, đi thì thì… bịa. Thế mà điểm thi
triết hơi bị cao, 7, 8 điểm là chuyện rất bình thường. Trên thực tế, với tất cả
mọi người “không liên quan gì đến triết học”; cũng chỉ cần thế là đủ.
“Thế” là thế
thế nào chứ? Vấn đề đầu tiên, thuật ngữ triết học là vấn đề “bản thể luận”, tức
là vấn đề bản chất của thế giới. Nhưng trên thực tế, vì vấn đề này nó rất gần với
“vũ trụ luận”, nên mình học lẫn cả đống đó vào nhau cho tiện, chẳng sao đâu vì
đằng nào thì cũng không dùng mớ kiến thức đó để đi dạy cho ai cả, mà học để hiểu
là chính. Chính trong cái “bản thể luận” ấy ta nhồi nhét được hàng đống vấn đề
khác vào trong đó, ví dụ to đùng, to nhất là “vật chất và ý thức, cái nào có
trước, cái nào có sau?” – thế không phải là chủ nghĩa duy vật (Marx chẳng hạn)
chẳng đề xuất khởi nguyên của mọi thứ, trong đó có thế giới, và to hơn là vũ trụ
chính là vật chất à? Rồi từ cái chuyện “vật chất ý thức” đó ta lại nghiên cứu
tiếp vụ “thế nếu ông khác cho rằng ý thức có trước, thì có trước là có trước thế
nào?” Sau đó là vấn đề “mối quan hệ của con người với thế giới” (mình vẫn dùng
chữ “thế giới” để chỉ cho cả một khái niệm lớn hơn – “vũ trụ” nhé). Đại khái thế…
Đến đoạn này
thì “hay à nha!”… Marx – Friedrich Engels – Lenin thì cho rằng ý thức là sản phẩm
phát triển cao của vật chất, là “hiện thực khách quan được phản ánh lại vào
trong một dạng vật chất phát triển cao là bộ não, thành ý thức”; thì cũng có
nghĩa là, nếu con người chết ngoẻo củ từ, cái món “ý thức” cụ thể của người vừa
chết đó, nó cũng chết nốt. Chỗ kẹt của ba ông này là ở chính cái vũ khí “duy vật
biện chứng dựa trên những thành tựu của khoa học” (hồi đó là sự phát triển khá
nhanh của các môn khoa học tự nhiên như toán học, vật lý, hóa học…), nên họ
cũng khấp khởi dựa ngay vào một số thành tựu của khoa học về bản chất vật chất
của thế giới, áp dụng thêm tư duy (siêu hình?) mà xây dựng nên cả một học thuyết
triết học. Nhưng ngay sau ba ông đó, chính các nhà khoa học thiên tài của thế kỷ
20, điển hình là Einstein và sau này là Stephen Hawking, cảm thấy khoa học bị “vướng”.
Khoa học nhìn chung thì cũng chỉ là nhận thức của con người thôi, do đó nó luôn
luôn bị giới hạn, và những gì mà con người đã biết, nó bé một cách thê thảm so
với cả một cái vũ trụ to khủng bố mà chúng ta không thể hình dung ra được. Theo
Đức Phật thì con người chỉ có tri thức về thực tại. Con người bị chấp chặt vào
tri thức đó, bị dính mắc và bị chúng điều khiển, do đó tạo nên khổ đau cho
chính mình và cho nhân loại. Nào, ba ông râu ria thấy kẹt chưa?
Vậy nếu ý thức
có trước thì sao nhỉ? Đại khái là chúng ta sẽ phải hình dung ra có một cái thứ “ý
thức tuyệt đối” nào đó, vô hình, vô ảnh – không rõ nó như thế nào nữa, nhưng nếu
xem phim thì Chúa Trời, Đức Allah, Đức Phật hay thần Zeus cũng đều do một ông
diễn viên nào đó đóng (Gần đây nhất có ông Liam Neeson đóng vai thần Zeus) –
nghĩa là con người vẫn cố hình dung về vị thần, trời của mình dưới một hình dạng
con người có hình tướng cụ thể. Ơ thế nhỡ họ không như vậy thì sao? Rất có thể
lắm chứ, khi nào họ “thị hiện” để cho người phàm chúng ta thấy, thì họ mới xuất
hiện đẹp trai như Jim Caviezel (Phim “The Passion of the Christ” – Mel Gibson
2004) hay Keanu Reeves (“Little Buddha” – Bernardo Bertolucci 1993) với đầy đủ “ba
mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp” (của Đức Phật) cho chúng ta cảm thấy gần
gũi mà thôi.
Đây cũng lại
vẫn nằm trong vấn đề cơ bản của triết học thôi – ý thức có trước, nghĩa là tồn
tại ý thức tuyệt đối đó, dưới dạng Thượng Đế. Và Thượng Đế thì tạo ra vạn vật. Ba
cái ông Marx – Friedrich Engels – Lenin thì phủ nhận luôn vụ này, dứt điểm rồi
không phải nghĩ. Nhưng cũng chính đoạn này với nhiều người trong số chúng ta,
không chú ý cũng dễ nhầm lẫn. Chúng ta nhầm lẫn trong các khái niệm thế nào là “vô
thần”, “có thần”; trong mối quan hệ giữa con người và cái thế giới nào đó khác
đang tồn tại ngoài cái lưng cong cong của trái đất mà chúng ta đang sống trên
đó.
=> Đạo Hồi như thế nào mình không
biết, nhưng Thiên Chúa Giáo thì rõ ràng cũng giải thích con người có linh hồn,
và Chúa thì có thể cứu rỗi linh hồn con người sau khi chết để về “nước Chúa”. Và
theo mình hiểu, thì cả Allah lẫn Chúa Trời Thiên Chúa, đều có thể tác động đến
con người, và do đó, các tín đồ cầu nguyện cho sự phù hộ đó.
=> Theo Phật thì cũng tồn tại linh
hồn con người dưới dạng “thần thức”, và tùy theo “nghiệp lực” của mỗi “người” (chữ
người trong ngoặc kép để biểu thị, không phải là cái thằng người cụ thể đang ngồi
gõ bàn phím này đâu, mà là cái thằng nó bao nhiêu kiếp trước và cũng là thằng
nó ti tỉ kiếp sau này nữa, nếu có) mà anh ta hay chị ta lại tiếp tục đầu thai
làm kiếp người, đọa địa ngục, thành ngạ quỷ súc sinh hay lên Niết bàn… tùy.
Mình nhận thấy
hầu hết các bác nhầm lẫn giữa “vô thần” và “có thần” ở chỗ này – họ nhầm giữa
việc “tồn tại một linh hồn” nghĩa là “có thần”. “Có thần”, như Thiên Chúa hay
Allah tạo ra thế giới và tác động được vào con người, mới là “có thần”. Còn Phật
giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhận có Thượng Đế, có thần, có
linh hồn trường cửu hay “ý thức tuyệt đối” – do đó, Đạo Phật là “vô thần”.
Vậy Đạo Phật “vô
thần”, là duy tâm hay duy vật? Không duy tâm cũng chẳng duy vật; vật chất và ý
thức, cả hai cái đó có cùng một lúc, không phân biệt cái nào có trước, cái nào
có sau. Tuy nhiên, cách tư duy của Đạo Phật trang bị cho chúng ta hết sức mềm dẻo,
không có sự vật hiện tượng nào tồn tại vĩnh viễn và cái gì cũng sẽ thay đổi (“vô
thường”). Ba ông râu ria Marx – Friedrich Engels – Lenin nhặt được của Hegel (Georg
Wilhelm Friedrich Hegel 1770 – 1831) phép biện chứng mà quên rằng, Hegel là “biện
chứng khách quan”, rất gần với Phật. Ba thập niên cuối đời mình, nhà bác học
thiên tài Albert Einstein (1879-1955) dành thời gian để nghiên cứu về “Lý thuyết
thống nhất giữa lực hấp dẫn và hiện tượng điện quang” (The Theory of unify
gravitation and eletro-magnetism). Mặc dù bận rộn nghiên cứu và giảng dạy khoa
học, nhưng ông Einstein vẫn dành thời gian nhất định để nghiên cứu triết học và
tôn giáo, đặc biệt trong đó có Đạo Phật. Einstein đã phát biểu về Đạo Phật như sau: “Tôn
giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh,
giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn
siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng
thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng
được các điều kiện đó.”
Đến đây khối
bác hoạnh họe, thế người theo Phật làm sao mà phải lễ lạt cúng bái như thế? Xin
thưa, Đức Phật không yêu cầu người Phật tử phải cầu xin Ngài cái gì cả, không
cúng bái cũng được, chẳng sao. Với Đức Phật, tu học theo Ngài để “chứng Niết
bàn” là “học và làm theo chánh pháp”, “làm lành, tránh ác”… còn chuyện cúng
bái, không phải là lạy vị Phật “ở đâu đó” mà chính là một phép thực hành hướng
tới vị Phật trong tâm mình, vậy thôi – và điều đó là cần thiết với người theo học
Phật (tu học mà không đọc kinh sách, không thực hành nghi lễ thì làm gì chứ?).
Đó, vị Phật
là ở trong tâm mình, chính là tu học làm sao mình có được một cái tâm thanh tịnh,
trong mọi chuyện không khởi tham, sân, si, mạn, nghi, ba cái tri kiến vớ vẩn
cũng không nốt… làm càng nhiều việc thiện, tránh càng nhiều việc ác; Niết bàn
cũng trong tâm của ta là như thế.
Đến đây thì
mình chẳng còn lăn tăn gì cả, cứ thế mà tiếp tục tu học thôi.
Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment