Tổng thư ký Liên hiệp quốc Dag Hammarskjöld |
Nếu như trong
thời đại thế giới phẳng ngày nay, một nhân vật tầm cỡ và nổi tiếng đến như Tổng
thư ký Liên Hiệp Quốc bị chết trong một tai nạn máy bay, thì sự việc sẽ làm cho
dư luận toàn thế giới trở nên dậy sóng như một cơn bão. Cách đây 53 năm, trên thế
giới đã có một sự kiện như vậy.
Năm 1960, nước
Cộng hòa dân chủ Congo vừa giành được độc lập từ tay Vương quốc Bỉ, lại có bất ổn
về chính trị. Tỉnh Katanga, dưới sự lãnh đạo của Moise Tschombé, tuyên bố li
khai. Đồng thời, chính quyền trung ương lại chia thành những người ủng hộ thể
chế liên bang của Tổng thống Joseph Kasa-Vubu và những người ủng hộ chế độ hợp
nhất của Thủ tướng Patrice Lumumba. Lực lượng của Thủ tướng Patrice Lumumba được
sự ủng hộ về quân sự của Liên Xô (ngoài vũ khí, khí tài, còn có 1000 chuyên gia
quân sự Xô-viết đã đến Congo trong năm 1961), nhanh chóng mở rộng tầm ảnh hưởng
của mình, nhưng cũng đồng thời bị cáo buộc bởi việc sử dụng binh lính trẻ em có
độ tuổi trung bình chỉ 14, và gây ra những cuộc thảm sát ở Luba (Nam Kasai). Tổng
thống Joseph Kasa-Vubu thì lo ngại sự can thiệp ngày càng sâu vào tình hình đất
nước của Liên Xô, chỉ làm gia tăng tình trạng bất ổn, còn Hoa Kỳ thì lo ngại sự
bành trướng của Chủ nghĩa Cộng sản ở Trung Phi.
Năm 1961, Thủ
tướng Lumumba bị ám sát trong cùng một vụ với hai người nữa, Chủ tịch Quốc hội Joseph Okito và Bộ trưởng Quốc phòng Maurice
Mpolo. Thông tin không rõ ràng và có nhiều giả thuyết cho rằng chính Moïse
Tshombé đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hạ sát ba người nói trên.
Nội chiến vẫn tiếp tục kéo dài ở Congo – một đất nước nhiều tài nguyên, nhất là
Uranium và được sự quan tâm đặc biệt từ nhiều phía, trong đó có Liên Xô và Hoa
Kỳ. Nếu như Patrice Lumumba trực tiếp kêu gọi sự ủng hộ của Liên Xô, thì Hoa Kỳ
sẽ phải đứng về phía ngược lại, ai cũng được, miễn là người đó chống lại
Lumumba. Sau khi Lumumba chết, cuộc khủng hoảng Congo bắt đầu có lối thoát: chính
quyền hợp nhất đứng đầu là ông Cyrille
Adoula, tháng Chín năm 1961 đã yêu cầu sự giúp đỡ của Liên Hiệp Quốc, trong đó
kế hoạch đề ra là ổn định tình hình đất nước, thống nhất Congo, thủ tiêu chủ
nghĩa li khai bằng đàm phán hòa bình; và tổ chức này (Liên hiệp quốc) đã bắt đầu
triển khai lực lượng của mình tại đây. Tuy nhiên Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên
Xô Nikita Khruschev đã cực kỳ phản đối những chính sách của Tổng thư ký Liên Hiệp
quốc lúc này là ông Dag Hammarskjöld, thậm chí vào tháng Chín năm 1960
Khrushchev còn yêu cầu Hammarskjöld phải từ chức và kiến nghị Liên hiệp quốc áp
dụng một định chế tổng thư ký mới với ba người, đại diện cho ba nhóm nước khác
nhau, các nước tư bản, các nước xã hội chủ nghĩa và các nước mới độc lập, cùng
đảm nhận.
Và khoảng giữa
tháng Chín năm 1961, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, người được giải Nobel Hòa
bình, Dag Hammarskjöld quyết định bay đến Congo để bắt đầu cuộc nói chuyện hòa
bình. Ông dự định gặp Moise Tschombé ở Ndola, Liên bang Rhodesia và Nyasaland (hiện nay
là Zambia). Một chiếc Douglas DC-6B của hãng Transair Thụy Điển được chuẩn bị để
chở ông đi, nhưng trước đó, nó đã bị hư hại một chút, trúng mấy viên đạn ở
Elizabethville khi nó chở trung tướng người Ailen ông Sean MacEoin đến thay ông
tướng người Thụy Điển Carl Carlsson von Horn làm chỉ huy lực lượng gìn giữ hòa
bình của Liên hiệp quốc tại Congo (Opération des Nations unies au Congo, viết tắt
là ONUC (tiếng Anh: The United Nations Organization in the Congo - UNOC)). Tuy
nhiên, tổ bay với cơ trưởng lão luyện Per Hallonquist và bộ phận kỹ thuật đã
xác định, chiếc máy bay hoàn toàn có thể bay tốt vì nó chỉ bị hư hại nhẹ. Và thế
là chiếc máy bay đã xuất phát, mang theo trên mình Tổng thư ký Liên hiệp quốc, thư
ký người Canada Alice Lalande và cố vấn của ông người Hoa Kỳ gốc Đức Heinrich
Wieschhoff. Ngoài ra, còn có đội bảo vệ ba người chỉ huy bởi trung sỹ người Hoa
Kỳ Harold Julien. Chuyến đi về nguyên tắc được giữ bí mật, nhưng các thông tin
điều tra sau này cho thấy, ở sân bay Ndola, người ta đã biết việc ông Tổng thư
ký bay đến vào nhiều giờ trước. Còn có một điều đáng chú ý nữa là, chiếc máy
bay hoàn toàn không có tiêm kích hộ tống, trong khi đó ngay từ chiều đã có một
số chiếc cường kích của Ấn Độ B-58
“Canberra” đã hạ cánh để làm nhiệm vụ hộ tống.
23 giờ 30 phút
ngày 17 tháng Chín năm 1961, nhân viên kiểm soát không lưu sân bay Ndola
Campbell Martin nhận được tín hiệu liên lạc trên chiếc “Albertina” thông báo sẽ
hạ cánh lúc 0 giờ 20 phút. Khoảng 0 giờ 10 phút, lại có thông báo máy bay đang
tiếp cận sân bay, và Martin hướng dẫn phi công hạ độ cao xuống 1800 mét để chuẩn
bị hạ cánh. Nhưng cũng ngay lúc đó, máy bay va vào cây, đâm vào sườn núi Ndola
Hill, phát nổ ở độ cao 1290 mét, trong khi đó lời khai sau này của Campbell
Martin thì lại chắc chắn là máy bay vẫn ở độ cao 1800 mét – và những hội thoại
của anh ta với tổ lái, hoàn toàn không được ghi âm lại “máy ghi âm của tôi bị hỏng”
– anh ta khai như vậy.
Hoạt động cứu
hộ được tiến hành và người ta tìm thấy máy bay rơi các khoảng 15 km ở phía tây
sân bay, sau chừng 8 giờ tìm kiếm. Những người trên máy bay được thông báo là
đã chết hết, ngoại trừ một người Hoa Kỳ Harold Julien trong tình trạng bị bỏng
nặng. Sáu thành viên của phi hành đoàn và chín hành khách đã chết, đồng hồ đeo
tay vỡ vụn của họ cho thấy thời gian vụ tai nạn tại vào khoảng 0 giờ 11 phút đến
0 giờ 13 phút. Tổng thư ký Liên hiệp quốc được nhận dạng nhanh chóng nhờ chiếc
vòng bạc ông đeo có khắc tất cả các thông tin cá nhân.
Hiện trường vụ tai nạn |
Harold Julien
hôn mê, nói những câu rời rạc “nổ, tai nạn” hoặc ngược lại “tai nạn, nổ”, “Dag Hammarskjöld
nói “quay lại!”” “đau, moócphin…” rồi chết sau vài ngày, không cung cấp được gì
nhiều. Cuộc điều tra được tiến hành bở người Anh sau đó đã dẫn người ta đi đến
nhiều giả thuyết. Lỗi của phi công? Một trong ba người phi công có hàm lượng cồn
trong máu rất cao. Động cơ trục trặc? – tất cả các động cơ đều hoạt động và thậm
chí gia tăng công suất vào thời điểm bị tai nạn. Một giả thuyết nữa – máy bay bị
bắn hạ. Trong cuốn sách khá nổi tiếng của nhà văn – nhà báo người Tiệp Václav
Pavel Borovička “Những phát súng từ ổ phục kích” (đã được dịch sang tiếng Việt
từ tiếng Nga, Sở văn hóa thông tin tỉnh Nghĩa Bình (cũ) xuất bản năm 1986),
không hiểu sao tác giả lại quy nghi vấn cho một phi công đánh thuê người Bỉ
trong lực lượng không quân của Katanga: thiếu tá Joseph Doulin. Đây là một phi
công thuộc hàng “Át” (Ace), luôn ăn mặc kiểu tài tử, rất thể thao, chỉ bay một
mình trên chiếc tiêm kích phản lực Fouga CM.170 Magister trên thân có kẻ biệt
hiệu của anh ta “Lone Ranger” (Lữ khách cô đơn). Máy bay Fouga CM.170 Magister
do Pháp chế tạo trong thập kỷ 1950 được không quân nhiều nước sử dụng, và đã có
vài chiếc được không lực Katanga mua “lậu” về Châu Phi để tự trang bị. Joseph
Doulin còn có một biệt hiệu nữa là “phi công điên”.
Trong kết quả
khám nghiệm, người ta phát hiện nhiều vết đạn và lỗ thủng đáng nghi ngờ trên
thân máy bay của Tổng thư ký Liên hiệp quốc, về sau, kết luận điều tra cho rằng
những lỗ thủng đó được gây ra bởi cành cây và những viên đạn của nhân viên an
ninh trên máy bay phát nổ, xuyên thủng. Để loại trừ giả thuyết DC-6B
“Albertina” bị bắn bởi Fouga CM.170 Magister, vì nó không đủ tầm bay tới Ndola rồi
lại trở về căn cứ ở Kolwezi…
Còn một giả
thuyết nữa là sự điều hành sai lầm (không biết có cố ý hay không) của bộ phận
kiểm soát không lưu khi cung cấp số liệu độ cao sai, nhưng cũng rất kỳ lạ là
DC-6B “Albertina” không có thiết bị ghi âm như thường có, và như trên đây đã viết,
nhân viên không lưu “bị hỏng máy ghi âm”.
Cuộc điều tra
dường như được điều khiển bởi một thế lực nào đó, nên nó đã bỏ qua và che giấu
đi nhiều thứ. Vào năm 2011, thời điểm kỷ niệm 50 năm biến cố, tờ “The Guardian”
đã lại đào xới vấn đề. Göran Björkdahl một nhân viên cứu hộ người Thụy Điển đến
Ndola, đã đến hiện trường và tiếp tục cuộc điều tra do bố ông ta đã bắt đầu vào
thập niên 1970, khi ông cụ ở đây. Ông cụ đã hỏi nhiều người dân địa phương, tất
cả các nhân chứng đều cho biết chiếc DC-6B bị bắn hạ bởi một chiếc máy bay thứ
hai, nhỏ hơn – nhưng hồi đó Ủy ban điều tra đã phớt lờ những thông tin này. Những
nhân chứng bây giờ đã vào độ tuổi trên 70, hầu hết là những công nhân khai thác
than trong vùng, đã cung cấp nhiều thông tin. Dickson Mbewe, nay đã 84 tuổi, kể:
“Đêm đó tôi ngồi ngoài hiên nhà ở khu dân cư Chifubu, tây Ndola với một nhóm bạn,
thì thấy cái máy bay bay qua. Lần đầu, chúng tôi không để ý đến nó. Nhưng lần
thứ hai, lần thứ ba nó bay vòng qua… chắc là nó không hạ cánh được. Đột nhiên,
có một chiếc máy bay khác nhỏ hơn tiếp cận cái máy bay to từ độ cao lớn hơn, và
có một cái gì đó giống như tia chớp xuất hiện. Chiếc máy bay ở trên quay đầu và
bay về hướng khác, còn chiếc lớn thì lao xuống rồi biến mất.” Vào khoảng 5 giờ
sáng sớm hôm đó, Mbewe đi đến lò than của ông gần hiện trường vụ tai nạn, nơi
ông thấy binh sĩ và cảnh sát đang giải tán người dân hiếu kỳ, nhưng theo báo
cáo chính thức xác máy bay chỉ được phát hiện vào 3 giờ chiều. “Có một nhóm
binh lính da trắng khiêng một cái xác, hai người ở phía trước và hai người đi
phía sau,” ông nói, “Tôi nghe người ta nói rằng có một người đàn ông đã được
tìm thấy còn sống và cần được đưa đến bệnh viện. Không ai được phép ở lại.”
Mbewe không dám đi tiếp vì – ông nói: “Bầu không khí đầy đe dọa, chúng tôi đã bị
đuổi đi. Tôi sợ cảnh sát có thể đưa tôi vào tù.” Còn Custon Chipoya, cũng là một
người dân địa phương làm nghề đốt than năm nay 75 tuổi, kể lại cũng đã nhìn thấy
một chiếc máy bay thứ hai trên bầu trời đêm đó. “Tôi thấy một máy bay quay
vòng, nó có đèn rõ ràng và tôi có thể nghe thấy âm thanh ầm ầm của động cơ,”
ông nói. “Nó bay không cao lắm. Theo tôi, nó đang ở độ cao để chuẩn bị hạ cánh.
Nó quay vòng lại lần thứ hai, rõ đến mức chúng tôi thấy nó dễ dàng và lại lần
thứ ba, khi nó bắt đầu hướng tới sân bay, thì bỗng dưng tôi nhìn thấy một chiếc
máy bay nhỏ gần phía sau nó. Chiếc máy bay nhỏ nhẹ hơn cái kia, loại chiến đấu,
theo sau và sau đó, nó bắn vào máy bay to và ngoặt bay về hướng ngược lại.”
Göran
Björkdahl cho rằng: chiếc “Albertina” gần như chắc chắn bị bắn hạ bởi một chiếc
máy bay chiến đấu nhỏ hơn; Ủy ban điều tra của Anh quốc cũng như chính quyền Bắc
Rhodesian đã bưng bít thông tin, cũng như phong tỏa hiện trường khá lâu trước
khi công bố các thông tin; người nhân chứng sống sót duy nhất trên máy bay đã
không được cứu chữa đúng mức mà bị để mặc nằm trong một bệnh viện nghèo nàn cho
đến chết trong mấy ngày.
Vào thời điểm
đó, Tổng thư ký Liên hiệp quốc thì nỗ lực dàn xếp ngừng bắn, còn nước Anh và
ngành ngoại giao của nó thì bị nghi ngờ là ngầm hỗ trợ cho li khai Katanga và cản
trở tiến trình hòa bình. Tổng thư ký Dag Hammarskjöld đã lên một kế hoạch cho
phép lực lượng Liên hiệp quốc ở Congo tấn công vào Katanga để tiêu diệt lực lượng
li khai, nếu như những thỏa thuận hòa bình không đạt được, và chắc hẳn kế hoạch
này hoàn toàn không làm hài lòng ai đó đang muốn một Congo bất ổn…
Nếu như sự việc
lại được đào xới lên theo hướng này, thì giả thuyết “phi công điên” của V.P. Borovička
lại tỏ ra có lý. Ngoài “Lữ khách cô đơn” Joseph Doulin, trong lực lượng không
quân Katanga không có nhiều phi công bay chiếc Fouga CM.170 Magister.
Một chiếc Fouga CM.170 Magister |
Tìm hiểu hồi ức
của một phi công đánh thuê người Nam Phi: Jerry Puren, thời điểm chiếc
“Albertina” của Tổng thư ký tới Ndola, Puren đang ở dưới sân bay. Puren không bị
nghi ngờ, vì trước đó mấy ngày, ông ta nhận được thư khen ngợi vì những thành
tích trong chiến đấu từ chính Moise Tschombé. Ông được nghỉ phép và về nghỉ ở Johannesburg
(Nam Phi) ngày 12 tháng Chín. Tuy nhiên, chuyến đi của Tổng thư ký Liên hiệp quốc
đến Ndola đã làm đảo lộn, ông bị gọi trở lại, và thế là trên chiếc máy bay hành
khách của Nam Phi, ông hạ cánh trước chiếc “Albertina” xuống sân bay Ndola chỉ
một thời gian ngắn. Khi xuống máy bay, ông ta tự hỏi, “phải chăng cái đám đông
nghịt ở sân bay kia đang chờ đón mình?” – nhưng không phải, họ chờ đón Dag Hammarskjöld.
Trước khi “Albertina” hạ cánh, có một chiếc khác, chiếc DC-4 của hàng không Anh
quốc chở Huân tước Lansdowne tới Ndola rồi đi tiếp đến Salisbury theo lệnh của
Chính phủ Anh trước Tổng thư ký Liên hiệp quốc – Luân Đôn muốn tiếp tục can thiệp
vào tình hình, nhưng một cách kín đáo hơn. Sau đó là các sự việc đã kể trên đây
và “Albertina” bị rơi. Puren đã ở phòng chờ sân bay được vài giờ, ngồi nói chuyện
về tình hình Katanga cùng hai phi công đánh thuê khác là Glasspool và Gurkitz.
Do là phi công, nên gì những quan sát được của họ là rất đáng tin cậy. Tất cả bọn
họ đều nhìn thấy có một chiếc máy bay tiêm kích tấn công chiếc “Albertina”, rồi
ngoặt gấp, biến mất. Trong hồ sơ điều tra còn có một biên bản lấy lời khai của
nhân viên điều tra hỏi một người đốt than địa phương tên là Buleni, ông này
cũng khẳng định chắc chắn là nhìn thấy hai máy bay, trong đó chiếc nhỏ hơn bắn
rơi chiếc lớn.
Tuy nhiên ở
đây còn có một giả thuyết nữa mà người ta chưa bao giờ có đủ thời gian kiểm
tra: chiếc máy bay tiêm kích đã tấn công chiếc “Albertin” nếu có, phải chăng
thuộc lực lượng không quân Liên bang Rhodesia và Nyasaland? – vì chúng có vị
trí căn cứ gần hơn rất nhiều những chiếc Fouga CM.170 Magister của không quân
Katanga ở tận Kolwezi.
Trước những
thông tin của “The Guardian” đưa về cuộc điều tra độc lập của Göran Björkdahl,
các chuyên gia lịch sử Bộ Ngoại giao Anh cho biết họ không thể đưa ra bất cứ ý
kiến gì. Các quan chức Anh tin rằng, đến tận thời điểm hiện nay thì không có lý
do gì để tin rằng những điều tra này hoàn toàn đáng tin cậy…
Còn đây là những
thông tin bổ sung từ Wiki tiếng Việt: Ngày 19-8-1998, Tổng giám mục Desmond
Tutu, Chủ tịch Ủy ban đức tin và hòa giải Nam Phi (TRC) tuyên bố rằng những lá
thư mới được công bố gần đây cho thấy cơ quan tình báo Anh MI5, cơ quan tình
báo Mỹ CIA và cơ quan tình báo Nam Phi có liên quan tới vụ tai nạn máy bay. Một
lá thư của TRC cho hay có một quả bom được đặt ở phần bánh máy bay phát nổ khi
bánh chạm đất. Tuy nhiên, Tutu cũng nói rằng tính xác thực của lá thư này cần
xem xét lại; Văn phòng ngoại vụ Anh đưa ra giả thuyết rằng những lá thư đó là hệ
quả của việc thông tin sai lầm từ phía Liên Xô. Ngày 29-7-2005, nhân dịp kỷ niệm
100 năm ngày sinh Hammarskjöld, thiếu tướng quân đội Na Uy Bjørn Egge đã có cuộc
trả lời phỏng vấn với tờ báo Aftenposten về những sự kiện diễn ra xung quanh
cái chết của cố tổng thư ký. Theo Egge, là nhân viên Liên Hiệp Quốc đầu tiên
nhìn thấy thi thể của Hammarskjöld, trên trán ông có một lỗ thủng đã bị xử lý kỹ
thuật trong những bức ảnh chụp thi thể sau đó. Theo Egge, Hammarskjöld có vẻ
như đã bị ném khỏi máy bay, những ngọn cỏ và lá cây mà ông nắm chặt trong tay
chỉ ra rằng rất có thể ông đã sống sót sau tay nạn và đã cố gắng bò ra xa đống
đổ nát. Egge không nói thẳng rằng vết thương trên trán Hammarskjöld là một vết
đạn bắn, và tuyên bố của ông không khớp với thông tin của Tổng giám mục Tutu
hay những phát hiện khác trong cuộc điều tra chính thức. Trong một cuộc phỏng vấn
ngày 24-3-2007 trên kênh truyền hình Na Uy NRK, một nhân vật tự nhận là lính
đánh thuê và giấu danh tính tuyên bố từng ở cùng phòng với một lính đánh thuê
cũng không rõ tên người Nam Phi tự nhận là đã bắn Hammarskjöld. Theo đó, kẻ sát
nhân đã chết vào cuối những năm 1990.
Như vậy, tấm
màn bao phủ quanh cái chết của Hammarskjöld, vẫn còn chưa được vén lên.
____________________
Bài trên
Vietnamnet (Tuần Việt Nam) với bút danh Phúc Lai ở đây
Đọc lại:
Những vụ máy bay dân dụng bị bắn (hoặc được cho là bị bắn) trong lịch sử hiện đại – phần 3
Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây
Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây
No comments:
Post a Comment