Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma

Thời gian không đợi ai. Kể từ khi chào đời, chúng ta cứ từng phút từng giây tiến đến gần đoạn kết, về cái chết. Đời sống con người là như vậy, thế giới này, vũ trụ này, tất cả đều như vậy cả…

Tâm của chúng ta đây, cho dù hiện tại chứa đầy vô minh và khổ đau, vẫn có thể chuyển thành tâm giác ngộ của một đấng Phật đà. Nếu nói về vật chất tiền tài thì đúng là nên tri túc, đừng ham muốn. Nhưng trên lĩnh vực tâm linh, vì tiềm năng của tâm thức con người không giới hạn mà đời sống thì lại có hạn, cho nên phải cố gắng tối đa, tận dụng khoảng thời gian sống ngắn ngủi để làm hết những gì tâm có thể làm được, nhờ kiếp người quý giá này…

Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma

Saturday, December 31, 2011

Cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại với sự phá sản của chiến thuật “Chiến tranh chớp nhoáng” - “Blitzkrieg” của phát-xít Đức

PhuongNN

Gioongke (Junker) Ju-87 "Stuka"
máy bay cường kích ném bom bổ nhào,
một vũ khí hiệu quả của Blitzkrieg
Quân đội phát-xít Đức từ trước khi tấn công vào Liên Xô đã có kinh nghiệm chiến đấu trên các chiến trường khắp châu Âu trong hai năm: Pháp, Bỉ, Hà Lan và một số nước khác. Các cuộc chiến tranh này đã khẳng định tính hợp lý của chiến thuật “Blitzkrieg” (Đánh nhanh thắng nhanh) của học thuyết quân sự Đức.

Các cuộc chiến tranh ở Pháp, Bỉ, Hà Lan và nhất là cuộc chiến tranh chống Ba Lan tháng Chín năm 1939 đã khẳng định trong điều kiện chiến tranh với một kẻ địch yếu thì những hình thức tiến hành chiến dịch mà quân đội Hít-le đề ra ngay từ hồi đó (tháng Chín năm 1939) là rất hợp lý. Trong tiếng Đức, “Blitzkrieg” là một từ ghép blitz-krieg, có nghĩa là cuộc chiến tranh chớp nhoáng, mà trong cuộc chiến tranh đó hành động tấn công căn bản là dùng khối lượng xe tăng thật lớn với sự yểm hộ của phi cơ thọc sâu một cách táo bạo vào tung thâm của đối phương.


Sự phát triển của chiến thuật Blitzkrieg

Cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 18) là một quá trình phát triển của chiến thuật của quân đồng minh trong việc sử dụng khối lượng bộ binh dày đặc tấn công sau một thời gian dài bắn phá mãnh liệt, nhưng do hiệu quả của pháo binh còn thấp và chủ yếu lúc đó quân Đức chuyển sang chiến thuật phòng ngự trận địa kiên cố. Các năm 1916 – 18 quân Đức bố trí đội hình chiến đấu thành từng toán, nên quân đội Anh – Pháp phải trang bị rất nhiều phương tiện hỏa lực: súng máy, pháo binh để sát thương cho bộ binh và kị binh càng nhiều càng tốt. Nhưng cũng trong cuộc chiến tranh này, sự xuất hiện của hai loại phương tiện chiến tranh mới có tính cách mạng đã làm thay đổi nhiều trong các học thuyết chiến tranh sau này: xe tăng thiết giáp và máy bay có vũ trang. Thứ nhất, chúng trở nên bất khả xâm phạm với các loại vũ khí bộ binh và có sức cơ động chiến đấu rất cao. Đó chính là những ưu điểm làm thay đổi toàn bộ những nhìn nhận về cách thức tiến hành chiến tranh.

Sau chiến tranh, nhiều ý kiến tập trung vào phát triển các loại phương tiện chiến tranh mới này được đề xuất đồng thời các nghiên cứu về chiến thuật chiến đấu của các phương tiện đó, trong sự phối hợp chiến đấu với các binh chủng khác. Trong thời kỳ của hải quân, người ta phát triển cả các phương tiện chở máy bay trên biển, để có thể đưa máy bay chiến đấu đến gần lãnh thổ đối phương hơn, và dần dần làm giảm nhu cầu trang bị pháo hạm tầm xa. Tại Nga, vì đất rộng nên sự xuất hiện của các đơn vị lớn bộ đội nhẩy dù đã đem lại cho bộ binh những sức cơ động chiến đấu mới, và các hạm đội mạnh, lớn với số lượng lớn xe tăng hạng nhẹ tốc độ nhanh đã được hình thành để tăng cường đáng kể sức chiến đấu cơ động của bộ binh. Ở nước Anh, dù ngăn cách với Châu Âu bằng eo biển Măng-sơ, nhưng người ta cũng phát triển những đơn vị lớn được trang bị tốt “bộ binh thiết giáp” hay “bộ binh xe tăng” để hỗ trợ cho bộ binh tấn công bằng sự yểm hộ trực tiếp của hỏa lực xe tăng. Chính vì thế mà xe tăng hạng nhẹ được chế tạo nhiều để thay thế cho kị binh đã tỏ ra lỗi thời.

Các quân đội khác như Pháp và Ba Lan vẫn khăng khăng với lý luận chiến tranh trận địa lỗi thời: xây dựng hệ thống phòng ngự công sự dàn đều với những bãi mìn như ở trong chiến lũy Ma-gi-nô, mặc dù có trang bị nhiều boong-ke bê-tông và pháo binh hạng nặng, chiến thuật phòng ngự này tỏ ra quá yếu trong chiến tranh hiện đại. Còn quân đội Ba Lan thì thậm chí còn say sưa với việc phát triển kị binh. Cả hai nước đều có một lực lượng không quân yếu ớt.

Quân đội Đức sau chiến tranh, bỏ lại những khó khăn hạn chế của một nước bại trận, đã tập trung vào việc phát triển lý luận quân sự mới, kéo theo sự phát triển nhanh chóng của số lượng xe tăng và máy bay tấn công loại mới trang bị cho quân đội, chủ yếu dựa trên lý luận quân sự của Anh Basil Liddell-Hart, đã được phổ biến và tuyên truyền rộng rãi trong thời hậu chiến.

Rất sớm trong những năm 1920, tướng Đức von Seeckt, đứng đầu quân đội Đức lúc đó đã viết rằng đóng vai trò quyết định những cuộc chiến tranh trong tương lai sẽ thuộc về các lực lượng tấn công nhỏ hơn, nhưng có trang bị hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, với sự yểm hộ hiệu quả của một lực lượng không quân tấn công mạnh. Một viên tướng bộ binh Đức, Hên-giơ Gu-đê-ri-an (Heinz Guderian) được bổ nhiệm chủ nhiệm trường xe tăng Nga - Đức ở Ca-dan được thành lập đã thu thập được nhiều kinh nghiệm trong huấn luyện chiến đấu trên chiến trường Nga và có nhiều đóng góp trong việc dứt bỏ hẳn những gì rơi rớt lại của cuộc đại chiến thế giới I mà nước Đức đã là nước bại trận.

Gu-đê-ri-an đọc những tư tưởng Lidell-Hart với những ý tưởng phát triển mới, và sau này đã có vài năm để hoàn thiện chúng trên thực tế huấn luyện chiến đấu. Chính những tư tưởng của Gu-đê-ri-an lại được sự hậu thuẫn của những nhân tố mới của cuộc đại chiến sẽ nổ ra: chủ nghĩa phát-xít và Đảng quốc xã, cầm đầu là A-đôn-phơ Hít-le cầm quyền ở nước Đức từ năm 1933. Chiến tranh được coi là một phương tiện cần thiết để tiến tới bá chủ thế giới. Giới cầm quyền Đức gấp rút tái trang bị và tái vũ trang quân đội theo hướng quân phiệt hóa mọi hoạt động xã hội.

Hít-le và bộ sậu hiểu rất rõ sự khác biệt giữa cuộc chiến tranh sắp tiến hành so với cuộc chiến tranh đã qua, và quả thực đã đạt được những kỳ tích rực rỡ trong việc vượt qua những khó khăn của một nước thua trận mà xây dựng lại nền công nghiệp quốc phòng để phục vụ cho những chiến lược và chiến thuật quân sự mới. Chính trong môi trường này, những ý tưởng của Gu-đê-ri-an tìm được mảnh đất màu mỡ để phát triển: xây dựng những lực lượng xe tăng và bộ binh cơ giới hóa lớn và hắn ta đã tìm được những công cụ cần thiết. Hắn đã phải thốt lên: “Đó là những gì tôi cần, và đó là những gì tôi muốn có”. Với sự ủng hộ mạnh mẽ của chính Hít-le, công nghiệp xe tăng đã chế tạo rất nhiều xe tăng nhỏ và xe thiết giáp tốc độ cao để trang bị cho bộ binh cơ giới hóa, và lực lượng này phát triển hết sức nhanh. Công nghiệp xe tăng phát triển đến một quy mô khổng lồ. Gu-đê-ri-an đã trở thành một sư đoàn trưởng xe tăng của sư đoàn xe tăng Con Báo đầu tiên, và năm 1938, hắn trở thành Quân đoàn trưởng của Quân đoàn xe tăng Con Báo Đức, sau đó trở thành tư lệnh của lực lượng cơ động chiến đấu Đức, trực tiếp dưới quyền Tổng tư lệnh Hít-le. Với những kinh nghiệm của hắn và trang bị rất tốt và hiện đại, quân đội Đức đã sẵn sàng tiến hành chiến thuật “Chiến tranh chớp nhoáng” trên chiến trường.


Trang bị và vũ khí của chiến thuật “Blitzkrieg”

Nhìn chung, chiến thuật “Blitzkrieg” của quân đội phát-xít Đức được xây dựng trong thời kỳ của xe tăng, của máy bay tấn công chiến thuật và chỉ huy bằng vô tuyến điện, với phương châm “tốc độ” và “hỏa lực”.

·         Tập trung lực lượng tấn công cơ động mạnh: cơ động, hỏa lực, tấn công nhanh, thọc sâu bằng khối lượng xe tăng và cơ giới lớn. Lúc này công nghiệp xe tăng Đức đã đạt được những thành tựu lớn trong chế tạo ra những loại xe tăng mới rất tốt, hiện đại, còn bộ binh thì có các vũ khí hiệu quả, hỏa lực mạnh, vũ khí chống tăng cũng tốt. Các lực lượng của các đơn vị tấn công được huấn luyện tốt, thiện chiến, say máu nhất là lính tăng. Đi cùng xe tăng là bộ binh cơ giới được bảo vệ tốt khỏi sức sát thương của đối phương và có vũ khí chống tăng tốt. Loại bộ binh này chỉ dùng xe để di chuyển, còn thì chiến đấu bằng chân trên mặt đất.
·         Yểm hộ bằng khối lượng không quân tấn công lớn và mạnh: Pháo binh là một lực lượng yểm hộ tốt cho tấn công nhưng tính cơ động quá thấp, nên giới quân sự phát-xít nghiêng về phát triển các lực lượng không quân tấn công nhất là không quân oanh tạc. Đến đầu chiến tranh thế giới lần thứ hai, không quân Đức đã được trang bị một số lượng lớn máy bay oanh tạc bổ nhào Gioong-ke Ju-87 (Stuka), nhanh chóng phối hợp cùng xe tăng và bộ binh cơ giới trong tấn công. Thời gian này cũng chính là thời gian mà những quan điểm học thuyết sai lầm của Đu-ê nhấn mạnh vai trò của một “hạm đội ném bom mạnh” ảnh hưởng sâu sắc trong giới quân sự Xô-viết, chế tạo những máy bay ném bom khổng lồ nhưng bất lực. Thực tiễn chiến tranh đã chứng minh vai trò tấn công thọc sâu vô hiệu hóa chủ lực bộ binh, đánh các cầu, đường, bến vượt, sân bay và pháo binh đối phương của loại Stuka rất hiệu quả này. Và quả thực chúng đã làm mưa làm gió trên chiến trường châu Âu.
·         Quân nhảy dù là một dạng mới và khác của hoạt động không trợ, được sử dụng trong việc cần chiếm những mục tiêu chiến thuật đặc biệt mà không được phá hủy nó. Trong chiến thuật “Blitzkrieg” quân dù đổ bộ đường không thường được dùng để chiếm cầu và các đầu mối giao thông để đảm bảo tốc độ tiến quân của xe tăng và bộ binh cơ giới.
·         Chỉ huy chiến đấu bằng vô tuyến điện – trong khi đến tận năm 1940, các cơ quan tham mưu của quân đội Pháp vẫn chưa dùng vô tuyến điện để chỉ huy thì với quân Đức, mỗi một chiếc xe tăng, xe thiết giáp và máy bay đều có máy thu phát vô tuyến đàm thoại trực tiếp. Chính đây là một ưu thế hơn hẳn của quân đội Đức trong chỉ huy chiến đấu hợp đồng trong chiến thuật “chiến tranh chớp nhoáng”.
·         Tính mềm dẻo và đơn giản trong chiến thuật: chiến thuật chiến đấu của quân đội Đức hết sức mềm dẻo, phụ thuộc vào tình huống thực tế mà quyết định nhanh chóng thông qua liên lạc vô tuyến, kết hợp với hỏa lực mạnh của xe tăng cơ động và không trợ, cho phép quân Đức lựa chọn phương án tác chiến tối ưu nhất ngay trong trận đánh. Chiến thuật “blitzkrieg” là rất đơn giản dựa trên trang thiết bị kỹ thuật chiến tranh mới, hiện đại và hiệu quả, và là một phần của tính mềm dẻo trong chiến thuật tấn công. Quân Đức tấn công theo tinh thần của kị binh trước đây, không có gì khác.
·         Bất ngờ và gây hoang mang: trước lúc tấn công, quân Đức thường sử dụng biệt kích thám báo nhảy dù vào hậu phương đối phương, cắt đường dây thông tin liên lạc, khủng bố, gây hoang mang… và kết hợp với chiến thuật tấn công nhanh, chớp nhoáng và mạnh gây choáng cho đối phương, bỏ chạy liên tục không thể tổ chức đánh lại được.
·         Làm chủ trên không - chiến lược phát triển không quân đúng đắn của phát-xít Đức trong thời kỳ đầu chiến tranh đã đem lại những kết quả lớn: phát triển một lực lượng thích đáng không quân tiêm kích nhằm làm chủ trên không, tiêu diệt ngay không quân đối phương khi còn ở trên sân bay.
·         Hậu cần – công tác hậu cần trong chiến thuật “Chiến tranh chớp nhoáng” là rất quan trọng, do tốc độ tiến rất nhanh của các đơn vị tấn công mà các đơn vị hậu cần thường rớt lại phía sau, dễ dẫn tới việc các chi đội tiên phong phải dừng lại vì thiếu đạn dược và nhiên liệu.


“Blitzkrieg” trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai:

Lính Đức tiến vào Ba Lan - 1939
Lần đầu tiên Blitzkrieg được thử nghiệm thành công
Như trên đã nói, cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã hoàn toàn đập tan lý luận lỗi thời về chiến tranh trận địa mà một số lớn các nhà lãnh đạo quân sự nhất là Pháp vẫn khăng khăng giữ lấy trong những năm sát trước chiến tranh. Kỹ thuật mới, nhất là xe tăng và máy bay đã có quá nhiều thay đổi lớn làm tính chất của chiến đấu cũng thay đổi theo. Các sư đoàn quân xe tăng của phát-xít Đức có sự yểm hộ của không quân đã dễ dàng chọc thủng những mặt trận phòng ngự của quân đội Anh, Pháp dàn đều nhưng không sâu và do đó rất yếu, nên quân Đức dễ dàng vượt qua khu phòng ngự chiến dịch mà không gặp phải bất kỳ một sự kháng cự mãnh liệt nào. Bọn phát-xít Đức nhanh chóng làm chủ trên không; chủ yếu là do chúng đã tiêu diệt được một bộ phận lớn các phi cơ Anh, Pháp trên các sân bay, nên không quân Đức rảnh tay tập trung lực lượng lớn vào công kích mọi điểm trong hệ thống phòng ngự của đối phương, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lực lượng dự trữ của đối phương, làm tê liệt mọi sự chỉ huy, phá tan việc chấn chỉnh lại quân đội và phá hoại mọi công tác hậu phương. Bộ chỉ huy Pháp đã không chuẩn bị đối phó với cách thức tiến hành chiến tranh như vậy nên ở một mức độ đáng kể đã làm Pháp bị thất bại nhanh chóng hơn.

Nét đặc biệt nhất là phương pháp tiến hành chiến dịch của quân đội Hít-le sau khi đã kết thúc chiến cục ở Pháp là tấn công bằng cách tập trung cao độ lực lượng xe tăng có sự yểm hộ tích cực của máy bay trên một chính diện mặt trận nhỏ. Trong cuộc chiến đấu với những đối thủ tương đối yếu và không sẵn sàng chiến đấu, cách tấn công như vậy đã làm cho quân đội phát-xít Đức thu được thắng lợi.

Qua kinh nghiệm chiến đấu ở Pháp đã khiến Bộ tổng tham mưu lục quân Đức phát-xít đề ra được một số kết luận về các phương pháp tiến hành chiến đấu tấn công (chỉ thị ngày 20 tháng Mười một năm 1940): “Nhanh chóng, cơ động, tập trung lực lượng ở hướng tấn công chính, dũng cảm giải quyết và hoàn thành việc tấn công đó là cơ sở của thắng lợi. Để giành được thắng lợi việc thực hiện bất ngờ về mặt chiến dịch cũng như chiến thuật cũng có tác dụng quyết định. Cương quyết công kích không có sợ gì hai bên sườn bị đe dọa mới có thể phá tan được mặt trận của đối phương. Trong khi truy kích đối phương với các phương tiện đảm bảo vận động, ồ ạt dũng cảm tiến lên thì địch khó bảo đảm được việc tổ chức và củng cố trận tuyến phòng ngự mới. Về mặt đó việc phối hợp động tác với các phi cơ oanh tạc đặc biệt có giá trị rất lớn”. Như vậy là kết quả của chiến đấu tấn công trước hết phụ thuộc vào sự tấn công bất ngờ. Việc phối hợp chiến đấu với máy bay được đề lên hàng đầu còn tầm quan trọng của pháo binh thì coi nhẹ.

Dựa trên cơ sở tác chiến ở Pháp, bộ chỉ huy phát-xít Đức đi đến kết luận là xe tăng cần phải chỉ hoạt động trong tổ chức sư đoàn xe tăng, còn việc để các đơn vị xe tăng phối thuộc với các sư đoàn bộ binh là không đúng. Theo quan điểm của bọn Đức phát-xít, trong tấn công sư đoàn xe tăng đã tự xác định vai trò quan trọng cốt yếu và là một binh đoàn không thể xé lẻ được. Trong chỉ thị có nêu ra yêu cầu các sư đoàn xe tăng phải phụ thuộc về chiến thuật của bộ binh nếu như đơn vị đó tấn công qua khu vực của nó. Nếu như trong quá trình tấn công các lực lượng căn bản của sư đoàn xe tăng tách rời khỏi bộ binh thì sự phụ thuộc lại thay đổi, lúc đó bộ binh yểm hộ cho xe tăng là cần thiết để xe tăng có thể tiến lên được.

Bộ chỉ huy phát-xít Đức cũng có kết luận việc cần thiết phải sử dụng nhiều chi đội đi trước trong khi tấn công vào phòng ngự chiến dịch, các đơn vị này sẽ tiến sâu lên trước. Thường thường là các chi đội đi trước được điều lên khi đang tấn công và nhất là trong truy kích để chiếm các đầu cầu, các địa điểm có dân cư và những vị trí quan trọng về chiến thuật. Tính chất vận động của các chi đội được phái đi trước có ý nghĩa rất đặc biệt. Trong chi đội tiên phong có trang bị các đại bác bộ binh, dã pháo, súng cối và pháo cao xạ 88mm là rất hợp lý.

Dựa trên kinh nghiệm năm 1940, bộ chỉ huy của Hít-le yêu cầu các đơn vị tiếp tục truy kích về đêm để có thể bất ngờ tiếp cận đối phương. Trong khi truy kích và tiếp cận, việc tấn công của xe tăng vào lúc hoàng hôn và ban đêm thường được coi là lúc có thể tiêu diệt được hoàn toàn đối phương.

Việc tấn công vào nơi bố trí phòng ngự sẵn của đối phương yêu cầu phải tiến hành sau khi đã tấn công bằng hỏa lực, đồng thời trong quá trình tấn công hỏa lực tập trung bắn gần của bộ binh cũng có tầm quan trọng đặc biệt lớn lao.

Đây là một số kết luận trong các chiến cục năm 1940, là những điều cơ bản trong các phương pháp chiến thuật chiến đấu của quân đội phát-xít Đức năm 1941 ở mặt trận phía Đông.

Bên cạnh những điểm mạnh, chiến thuật của quân đội phát-xít Đức trước khi tấn công vào Liên Xô cũng có những sai lầm lớn. Chiến thuật của Đức cho rằng sẽ chiến đấu với một đối phương yếu, trang bị và huấn luyện kém, trình độ vận động thấp và lại có những quan điểm tiến hành chiến tranh đã lỗi thời. Trong cuộc chiến đấu với một đối phương như vậy, bọn phát-xít Đức hy vọng rằng sự tấn công bất ngờ, bất thình lình thậm chí có thể dùng những lực lượng không lớn lắm cũng đủ tiêu diệt đối phương. Chúng tính toán sẽ làm cho đối phương phải kinh hoàng, hoang mang để đạt được thắng lợi và trước hết là để cho đối phương không kịp tổ chức chống lại. Việc đột nhập vào hậu phương bằng những đơn vị cơ giới không lớn lắm để gây hoang mang; việc đổ bộ những đơn vị đổ bộ chiến thuật; việc hoạt động của những chi đội đi trước cách rất xa chủ lực; việc bắn phá ầm ỹ, loạn xạ… tất cả những biện pháp đó là cái mà bọn Hít-le đã nghiên cứu trong các trận chiến đấu hồi năm 1939 – 40 dựa trên việc nghiên cứu tâm lý của một đối phương kém vững vàng đã được áp dụng một cách máy móc khi chiến đấu với quân đội Xô-viết, mà không tính gì đến đặc điểm và khả năng của họ. Nếu như lúc bắt đầu chiến tranh trong điều kiện tấn công bất ngờ nó có những hiệu quả nhất định thì không bao lâu chiến thuật mạo hiểm đó đã bị phá sản hoàn toàn. Tinh thần dũng cảm và kiên cường đặc biệt của các chiến sỹ Xô-viết trong các cuộc chiến đấu gay go đã chứng minh sự sai lầm trong chiến thuật của địch.

Bên cạnh những sai lầm về phương pháp chiến thuật khác của quân đội phát-xít Đức, cần phải nói đến sự đánh giá quá cao một số quân chủng mà coi nhẹ các thứ khác. Vì đặt tính chất bất ngờ và nhanh chóng lên hàng đầu, nên bọn chỉ huy Đức hoàn toàn dựa vào những quân chủng vận động cao như các binh đoàn xe tăng và cơ giới hóa có sự yểm hộ của không quân. Về nguyên tắc, vai trò của vận động của quân đội trong giai đoạn cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai có giá trị rất lớn. Nhưng trong chiến thuật của quân đội phát-xít lại coi các quân chủng đó có tầm quan trọng tuyệt đối vì chúng có tư tưởng quá đề cao tính chất vận động và dẫn đến chỗ sai lầm trong việc sử dụng các quân chủng khác, mà trước hết là pháo binh, là binh chủng của Đức trong suốt quá trình chiến tranh bị coi nhẹ. Quân đội Xô-viết đã nhận ra được sự phiến diện đó và đối phó lại với chiến thuật sử dụng nhịp nhàng các binh chủng, đó là một điểm hơn hẳn so với chiến thuật của phát-xít Đức.

Việc huấn luyện chiến thuật của Hồng quân hồi đầu chiến tranh về cơ bản là thích hợp với yêu cầu và đặc điểm của chiến đấu hợp đồng. Tuy vậy quân đội Xô-viết lúc đó còn thiếu thực tế chiến đấu và chưa được huấn  luyện đầy đủ để chống lại một số phương pháp chiến thuật của phát-xít Đức là những phương pháp ở một chừng mực nhất định đối với Hồng quân là một sự bất ngờ. Với phương pháp đó, quân Đức có thể sử dụng tập trung trong những mặt trận hẹp các sư đoàn xe tăng là lực lượng tấn công ở thê đội 1 của quân cơ giới hóa có sự yểm hộ đắc lực của không quân, sử dụng những đội đổ bộ đường không nhỏ, đồng thời sử dụng rộng rãi các binh đoàn đi trước để hoạt động trong tung thâm phòng ngự chiến dịch. Điều đó đã khiến cho Bộ chỉ huy Xô-viết ngay từ đầu chiến tranh đã phải có những quan điểm chính xác về phương pháp chiến đấu chống đơn vị xe tăng của Đức đặc biệt là về tổ chức phòng ngự chống tăng… Trong thời kỳ đầu của cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại quân Đức đã sử dụng toàn bộ những kinh nghiệm có sẵn, do đó những đặc điểm về chiến thuật và chiến dịch của Đức đã bộc lộ hoàn toàn.

Quân Đức định nhanh chóng tấn công bất ngờ chủ yếu dùng các đơn vị vận động có sự yểm hộ của không quân chọc sâu vào tung thâm phòng ngự, chia cắt binh lực bố trí của Hồng quân, bao vây và tiêu diệt các đơn vị đó, đồng thời chiếm các nơi có lợi trong tung thâm để tiêu diệt các lực lượng dự bị chiến dịch, ngăn cản việc vận động của các đơn vị đó ra mặt trận. Lực lượng tấn công cơ bản của Đức là các đơn vị xe tăng thuộc các sư đoàn xe tăng và mô-tơ hóa đang tấn công ở hướng chủ yếu của chiến dịch. Khi tấn công có phối hợp chặt chẽ với không quân trên một phạm vi hẹp của mặt trận, các đơn vị xe tăng của quân Đức trong quá trình tác chiến ở biên giới đã hoạt động nhanh và linh hoạt, với những trận công kích quyết liệt đã đạt được những kết quả chiến dịch rất lớn. Ví dụ như Tập đoàn quân xe tăng số 2 và 3 phối hợp tấn công với Tập đoàn quân dã chiến số 4 và 5 trong giai đoạn từ 22 đến 27 tháng Sáu năm 1941 đã tiến sâu đến 300 ki-lô-mét và liên lạc được với vùng Min-xcơ. Các sư đoàn xe tăng trong các đơn vị đó trong tấn công đã phối hợp chặt chẽ với các sư đoàn cơ giới hóa là những đơn vị có tốc độ tấn công nhanh tương đương, và với sự tấn công của máy bay oanh tạc. Các sư đoàn cơ giới hóa đã chiếm các vị trí phòng ngự quan trọng, củng cố các khu vực mà các sư đoàn xe tăng đã chiếm được đang phát triển thắng lợi trong tung thâm.

Các Tập đoàn quân dã chiến của phát-xít Đức tấn công trên một chính diện tương đối rộng, từ 80 đến 200 ki-lô-mét. Các Tập đoàn quân xe tăng với một mật độ dày đặc hoạt động trong những khu vực chính diện rất nhỏ. Các sư đoàn xe tăng thuộc các Tập đoàn quân đó trung bình hoạt động trên một chính diện chỉ từ 8 đến 10 ki-lô-mét. Trong quá trình chiến đấu ở biên giới, tốc độ tấn công trung bình của Tập đoàn quân xe tăng Đức là từ 35 đến 55 ki-lô-mét một ngày, còn của các Tập đoàn quân dã chiến là từ 10 đến 20 ki-lô-mét. Việc chỉ huy bộ đội xe tăng nhất là đối với các đơn vị đang tấn công rất linh hoạt và kịp thời vì dùng vô tuyến điện.

Đặc điểm trong chiến thuật của phát-xít Đức và Hồng quân trong thời kỳ đầu cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại:

Việc tấn công do các sư đoàn bộ binh và xe tăng tiến hành, các đơn vị này nằm trong biên chế của Quân đoàn cơ giới hóa. Các sư đoàn bộ binh hoạt động ở hướng chủ yếu thì diện tấn công rộng từ 3 đến 6 ki-lô-mét. Đôi khi các sư đoàn bộ binh có tăng cường từ 1 đến 2 trung đoàn pháo và xe tăng, mật độ pháo binh trong khu vực tấn công của sư đoàn chỉ có khoảng từ 50 đến 70 khẩu trên một ki-lô-mét chính diện mặt trận. Các sư đoàn bộ binh thường tấn công thành đội hình có hai thê đội, ít khi có một thê đội, đặc biệt, đặc điểm của nó là nhanh chóng vận động và cơ động linh hoạt. Bộ chỉ huy các sư đoàn liên tục tấn công thật sâu vào trong tung thâm và nhiệm vụ chung không chia thành từng giai đoạn. Các sỹ quan chỉ huy lính tác chiến và binh đoàn được phép linh hoạt và chủ động trong khuôn khổ nhiệm vụ chung. Hoạt động của các đơn vị tiên phong dùng để thọc sâu vào tung thâm phòng ngự của Hồng quân và để chiếm các vị trí quan trọng trong khi hành tiến. Nhưng cũng chính những chiến thuật này của quân Đức đã ảnh hưởng rất lớn đến chiến thuật phòng ngự của Hồng quân, nhất là trong giai đoạn mùa hè và mùa thu 1942. Chỉ huy Hồng quân đã nhận được ra rằng, với chiến thuận đó tất yếu phải có được một hệ thống vững chắc, linh hoạt trong phòng ngự chống tăng. Trong bộ đội Hồng quân đã bắt đầu sử dụng rộng rãi hơn việc bắn thẳng, không phải chỉ như trước chỉ pháo chống tăng 45mm mới bắn thẳng, mà cả các cỡ pháo lớn hơn. Hệ thống phòng ngự phải được tổ chức và xây dựng sâu, nhiều tầng, được tổ chức thành nhiều thê đội. Các lực lượng dự bị chống tăng được thành lập. Việc lập nên các điểm tựa chống tăng, việc nghiên cứu các phương pháp bộ binh cận chiến với xe tăng, tất cả đã có ảnh hưởng quan trọng đến việc chống lại hiệu lực tấn công của xe tăng Đức. Việc vận động đột phá của quân Đức vào những khoảng cách và nơi tiếp giáp và hai bên sườn đã khiến vấn đề bảo đảm nơi tiếp giáp và hai bên sườn là một vấn đề quan trọng và cần thiết. Một số vấn đề về phương pháp phòng ngự nơi tiếp giáp bắt đầu được áp dụng. Vì lúc này không quân Đức vẫn làm chủ trên không nên Hồng quân từ đại đội đến tiểu đoàn phải tích cực áp dụng những biện pháp phòng không và ngụy trang kín đáo. Tuy nhiên, các phương pháp và cách thức tiến hành chiến tranh của Hồng quân trong giai đoạn mùa thu và mùa đông năm 1941 thì chưa đáp ứng được tình hình. Việc phòng ngự chưa phải nơi nào cũng đủ sức chống cự được hoạt động tập trung xe tăng của Đức. Mật độ chiến thuật còn chưa cao và tung thâm thì không đáng kể. Công sự phòng ngự thường là yếu. Hố cá nhân và hào chưa đảm bảo được đầy đủ đúng mức độ cần thiết, không có hầm cho người và nơi vận động của các phương tiện hỏa lực. Nhưng chính đó lại là những trường học lớn cho các cán bộ chỉ huy Xô-viết sau này.

Mùa xuân năm 1942, Bộ tổng chỉ huy Đức đã đề ra những “chỉ thị đặc biệt về huấn luyện cho bộ binh dựa trên cơ sở kinh nghiệm ở mặt trận phía Đông”, các chỉ thị này đã có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển chiến thuật tấn công và phòng ngự của quân đội phát-xít Đức. Trong các chỉ thị đó đặc biệt chú trọng đến vai trò của hỏa lực trong chiến đấu, từ đó về sau quân Đức mới nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của hỏa lực pháo binh trong chiến đấu với Hồng quân. Trong các bản chỉ thị có các nhận định:

“Trong tấn công và phòng ngự cần thiết phải nhanh chóng tập trung hỏa lực, không phải chỉ của một số loại súng nào đó mà phải đồng thời sử dụng vũ khí bắn thẳng và bắn cầu vồng… Việc tập trung đúng chỗ và đúng lúc các loại vũ khí hiện có (ở hướng chủ yếu) có ảnh hưởng rất nhanh chóng và đắc lực”. Trong chiến đấu tấn công yêu cầu trước hết là phải lập nên “những hướng công kích chính của hỏa lực” bằng cách “trao cho các đại đội các vũ khí nặng để nó sử dụng trong tấn công, đồng thời tập trung việc chỉ huy hỏa lực của tiểu đoàn ở các khu vực quyết định bằng cách sử dụng vũ khí hạng nặng của đơn vị và phối hợp với pháo binh”. Mỗi một người chỉ huy phải “cố sức để tập trung mọi lực lượng công kích, hỏa lực và dự bị ở nơi quan trọng có tính chất quyết định”.

Điều rất quan trọng trong quá trình tấn công là “nhanh chóng điều hỏa lực đúng chỗ và đúng lúc, thường xuyên yểm hộ cho tấn công bằng cách dùng các hình thức mới để tập trung hỏa lực của các loại hỏa khí bắn thẳng và cầu vồng”. Chỉ huy bộ binh có nhiệm vụ phải đảm bảo hỏa lực có hiệu quả trong khi bộ đội vận động tiến công và vận động sát với hỏa lực từng đợt của pháo binh.

Đây là một biến đổi rất quan trọng của quân Đức trong chiến thuật tấn công, trước đây chỉ chủ yếu đề cao vai trò của nhanh chóng cơ động là điểm quan trọng nhất của chiến thuật.

Nhưng những nhận thức đó đã tỏ ra là muộn màng, khi mà phương hướng chiến lược của quân đội phát-xít Đức đã đi theo hướng khác ngay từ đầu: đến chiến dịch tấn công lớn cuối cùng của quân Đức trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, trận Cuốc-xcơ, pháo binh của Đức đã tỏ ra “không lại” được với pháo binh Xô-viết. Trận đánh phản chuẩn bị của các Phương diện quân Xô-viết đã gây cho quân Đức thiệt hại nặng nề cả về pháo binh và xe tăng. Hơn thế nữa, về chiến lược Hít-le vẫn đặt nhiều hy vọng vào các loại xe tăng mới hạng nặng như Con Cọp, Con Báo… mà tự bản thân chúng không thể đem lại được bước ngoặt của chiến tranh.

Chuẩn bị để tiếp đón thích đáng cuộc tấn công của quân Đức, một hệ thống phòng ngự chống tăng nhiều tầng theo chiều sâu, có sự phối hợp chặt chẽ của pháo binh chống tăng bắn thẳng, pháo binh bắn cầu vồng với sự yểm hộ của các binh đoàn xe tăng và pháo tự hành, của những Tập đoàn quân không quân Xô-viết hùng mạnh… đã làm phá sản hoàn toàn chiến thuật “Blitzkrieg” khét tiếng toàn châu Âu của phát-xít Đức.

Không thể không nhắc đôi dòng đến chiến thuật “Blitzkrieg” Nga - Xô-viết. Từ sau trận hội chiến ở Cuốc-xcơ, Hồng quân bước vào giai đoạn tấn công chiến lược. Chiến thuật tấn công của Hồng quân cũng dựa trên vai trò vận động tấn công hết sức quan trọng của các đơn vị xe tăng và cơ giới, nhưng còn kết hợp với bộ binh đổ bộ bằng xe tăng. Quan trọng hơn, là lý luận quân sự binh chủng hợp thành phối hợp chặt chẽ giữa xe tăng bộ binh có sự yểm hộ mạnh mẽ và trực tiếp của pháo binh và không quân. Mật độ pháo binh trên một ki-lô-mét chính diện mặt trận đạt tới 200 khẩu pháo và súng cối! Đến cuối cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại, tốc độ tấn công của các đơn vị xe tăng Xô-viết kết hợp với bộ binh đã đạt được tốc độ 150 ki-lô-mét/ngày.

Ở đây tất nhiên còn có vai trò sức mạnh tổng hợp của quốc gia Xô-viết đã hết sức lớn mạnh xây dựng được một lực lượng quân đội to lớn và hùng mạnh, kết hợp với nhân tố con người, đó là nguồn gốc của chiến thắng.


Tổng hợp từ các tài liệu:
·         Panzer Leader (Heinz Guderian)
·         Achtung-Panzer (Heinz Guderian)
·         Panzer Battles : A Study of the Employment of Armor in the Second World War (F. W. Von Mellenthin).
·         “World War II” website.
·         Sự phát triển về chiến thuật của quân đội Xô-viết trong những năm Chiến tranh Giữ nước vĩ đại. Chủ biên: Trung tướng K.S. Kôn-ga-nốp - Học viện quân sự Phrun-de. Bản dịch tiếng Việt của Hải Dương, Vũ Thành, Hòa Bình, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân 1961

2 comments:

  1. Bài này có 1 cái sai lầm rất lớn, đó là cái này:

    "Thời gian này cũng chính là thời gian mà những quan điểm học thuyết sai lầm của Đu-ê nhấn mạnh vai trò của một “hạm đội ném bom mạnh” ảnh hưởng sâu sắc trong giới quân sự Xô-viết, chế tạo những máy bay ném bom khổng lồ nhưng bất lực. Thực tiễn chiến tranh đã chứng minh vai trò tấn công thọc sâu vô hiệu hóa chủ lực bộ binh, đánh các cầu, đường, bến vượt, sân bay và pháo binh đối phương của loại Stuka rất hiệu quả này. Và quả thực chúng đã làm mưa làm gió trên chiến trường châu Âu."

    Trên thực tế, đó lại là học thuyết mà anh và mĩ áp dụng. Đó cũng chính là khuyết điểm chết người của người đức.

    ReplyDelete
  2. chỗ này sai lầm rất nghiêm trọng nè bác nè

    Thời gian này cũng chính là thời gian mà những quan điểm học thuyết sai lầm của Đu-ê nhấn mạnh vai trò của một “hạm đội ném bom mạnh” ảnh hưởng sâu sắc trong giới quân sự Xô-viết, chế tạo những máy bay ném bom khổng lồ nhưng bất lực. Thực tiễn chiến tranh đã chứng minh vai trò tấn công thọc sâu vô hiệu hóa chủ lực bộ binh, đánh các cầu, đường, bến vượt, sân bay và pháo binh đối phương của loại Stuka rất hiệu quả này. Và quả thực chúng đã làm mưa làm gió trên chiến trường châu Âu.

    ReplyDelete