Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma

Thời gian không đợi ai. Kể từ khi chào đời, chúng ta cứ từng phút từng giây tiến đến gần đoạn kết, về cái chết. Đời sống con người là như vậy, thế giới này, vũ trụ này, tất cả đều như vậy cả…

Tâm của chúng ta đây, cho dù hiện tại chứa đầy vô minh và khổ đau, vẫn có thể chuyển thành tâm giác ngộ của một đấng Phật đà. Nếu nói về vật chất tiền tài thì đúng là nên tri túc, đừng ham muốn. Nhưng trên lĩnh vực tâm linh, vì tiềm năng của tâm thức con người không giới hạn mà đời sống thì lại có hạn, cho nên phải cố gắng tối đa, tận dụng khoảng thời gian sống ngắn ngủi để làm hết những gì tâm có thể làm được, nhờ kiếp người quý giá này…

Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma

Thursday, May 14, 2015

Hợp đồng khí đốt "khủng" Nga - Trung Quốc sau một năm đi đến đâu rồi? - Phần 1

Tháng Năm năm ngoái, Nga và Trung Quốc đã ký một hợp đồng khí đốt hàng “khủng” cả về thời gian lẫn giá trị - kéo dài đến 30 năm và 400 tỷ đô-la Mỹ. Hợp đồng được giao cho hai tập đoàn lớn của hai bên ký kết và thực hiện; Gazprom của Nga và Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNPC) mà nội dung chính của nó là hai bên sẽ hợp tác xây dựng một đường ống dẫn khí đốt tới vùng Đông Siberia của nước Nga để cung cấp cho Trung Quốc.

Khi hợp đồng này được ký, nó đã gây nhiều chú ý của dư luận quốc tế, cả về việc hai nước này đã bắt đầu bàn thảo khá lâu (khoảng 3, 4 năm) và đến thời điểm ký kết, thì lại đúng vào lúc nước Nga bị cho là can dự vào những sự kiện ở Đông Ukraine và nhất là sáp nhập bán đảo Crimea đã dẫn đến việc các nước Phương Tây áp đặt lên nước này những lệnh trừng phạt tạo nên tình thế bị cô lập đáng kể. Hợp đồng khí đốt 5/2014 làm người ta đặt câu hỏi, phải chăng nước Nga đã tìm thấy một đồng minh khăng khít hơn “hơn cả kinh tế” tiến tới thành lập một liên minh mang tính chiến lược làm cực đối trọng với cực kia của Phương Tây?

Nhìn lại thời gian năm 2011 là năm mà dự án đường ống dẫn dầu Đông Siberia – Thái Bình Dương (East Siberia –Pacific Ocean hay ESPO) vốn được bàn thảo từ trước đó, đã bị gác lại không biết đến bao giờ tiếp tục được đưa lên bàn đàm phán. Những khó khăn của dự án như nhu cầu cần vốn vay ứng trước từ người mua hàng là Trung Quốc; nhưng sự độc quyền của Gazprom vốn là tập đoàn khá nổi tiếng về độ trì trệ đã không có được sự hăng hái cần thiết đã làm cho hợp đồng này gần như không có cơ hội tiến triển. Một mặt là nhu cầu ngày càng tăng của Trung Quốc với nền kinh tế khát năng lượng, nhưng mặt kia là một nước tập trung vào nền kinh tế khai thác – mà đại diện là Gazprom độc quyền ở cả hai đầu, khai thác và phân phối đã trở thành một mâu thuẫn lớn về thị trường năng lượng khu vực. Cư xử theo kiểu một mình một chợ, Gazprom nhiều lần tìm cách ngăn cản các đối thủ như BP hay công ty con của nó là TNK-BP để xuất khẩu khí đốt từ những mỏ của mình tại Kovykta (ở bắc vùng Irkutsk) đến thị trường Đông Á, với lý do là khí đốt được bán chỉ được người mua sử dụng vào mục đích dân sinh. Tương tự như vậy năm 2007, khi ExxonMobil bày tỏ sẵn sàng bán cho Trung Quốc khí đốt từ mỏ Sakhalin-1 (một trong những mỏ hình thành sau khi khí đốt được phát hiện trên đảo Sakhalin), Gazprom đã ra lệnh áp đặt giá bán theo đúng thị trường, do đó gián tiếp bác bỏ thỏa thuận này. Trong khi Gazprom yên ấm với vị thế độc quyền, Trung Quốc đã ngấm ngầm xây dựng chiến lược dự trữ khí đốt từ năm 2003, bắt đầu đàm phán những giao dịch lớn với Australia, Saudi Arabia, Kazakhstan và Iran. Có thể kể một hợp đồng Trung Quốc thỏa thuận với một Tập đoàn quốc tế để xây dựng một hệ thống ba đường ống dẫn khí đốt lớn từ Tân Cương về Thượng Hải gọi là “Đường ống Tây – Đông”. Hệ thống này có thể vận chuyển 17 tỷ mét khối khí đốt một năm, qua 10 tỉnh (hoặc khu tự trị, thành phố) của Trung Quốc là Tân Cương, Cam Túc, Ninh Hạ, Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, An Huy, Giang Tô, Thượng Hải và Triết Giang. Theo hợp đồng này, Trung Quốc có được quyền sở hữu thêm cổ phần trong những mỏ sẽ được phát hiện thêm ở vùng lãnh thổ thuộc Trung Á của nước này ngoài những cổ phần hiện có. Như vậy, đã được hơn một thập niên, Trung Quốc tìm cách “bỏ qua” nước Nga mà tìm đường sang Phương Tây trong chiến lược năng lượng của mình.

Cho đến năm 2006, đường ống khí đốt sang phía Đông để bán cho thị trường này – Trung Quốc, Nhật Bản và cả “khách hàng cấp thấp hơn” là Hàn Quốc đã trở thành mối quan tâm lớn của chính sách đối ngoại thương mại Nga. Những nhu cầu về kinh tế trên thực tế đương nhiên là sẽ có những ảnh hưởng lớn đến quyết sách chính trị. Vùng Đông Siberia của Nga vốn được dự báo là giàu có về tài nguyên dầu khí chưa được thăm dò đầy đủ, nhưng với những mỏ dầu khí đã được phát hiện, thì chúng quá phân tán và nhu cầu dân sinh về năng lượng trong khu vực lại rất hạn chế. Việc phát triển dầu khí của khu vực này do đó còn rất nhiều khó khăn không dễ khắc phục chủ yếu là từ hạ tầng kỹ thuật có thể nói chưa có gì. Tuy nhiên, nhu cầu năng lượng tăng lên, được ghi nhận vào giai đoạn 2003 – 2008 khi mà hai đối tác Trung Quốc và Nhật Bản đều cạnh tranh với nhau trong việc bàn luận với Nga để xây dựng được đường ống khí đốt về Viễn Đông theo đúng như nhu cầu của mình. Đây là giai đoạn nước Nga đang hưởng lợi về dầu khí, nên khá thận trọng trước những thỏa thận nhận vốn đầu tư xây dựng đường ống bán khí cho hai nước này. Từ 2008 trở đi, quan hệ Nga – Nhật Bản trở nên căng thẳng hơn, từ việc Nga tước bỏ quyền sở hữu của các công ty dầu khí Nhật ở Sakhalin-2, quan hệ Nga – Nhật vẫn chưa được tháo gỡ những bất đồng xung quanh quần đảo Kuril và việc Tokyo thắt chặt liên minh với Washington… và đối tác chính của Nga chỉ còn lại Trung Quốc. (Hợp đồng năng lượng lớn nhất của Nga với Nhật Bản đến nay chỉ là hợp đồng giữa Sakhalin Energy ký với Công ty Khí đốt Osaka và các công ty Nhật Bản luôn coi các đối tác Nga là kém tin cậy với một môi trường đầu tư ít hấp dẫn.)

Về lĩnh vực dầu thô, năm 2009 từ Bắc Kinh, đã có một khoản vay trị giá tới 25 tỷ đô-la Mỹ cho hai công ty Nga là Rosneft và Transneft, hai công ty sẽ tiếp tục thăm dò, vận chuyển dầu khí bán cho Trung Quốc, và sau đó sẽ là dự án xây dựng đường ống dẫn dầu và khí. Được thiết lập vào năm 2011, ESPO dự kiến sẽ cung cấp cho Trung Quốc theo kế hoạch đến 2031 là 15 triệu tấn dầu thô một năm với một giá rất hời.

Về khí tự nhiên, tình hình không được thuận lợi như vậy. Đến năm 2007 các công ty Nga như Gazprom, Rosneft và Transneft đã thành công trong việc đẩy các công ty dầu khí nước ngoài ra khỏi vùng lãnh thổ Châu Á của nước Nga và xây dựng một kế hoạch chi tiết cho việc độc quyền của các công ty Nga trong thăm dò, khai thác và bán khí đốt từ vùng này. Tuy nhiên kế hoạch này đã không được thực hiện đúng tiến độ và cả nội dung, do đó Nga đã đánh mất phần nào lòng tin của hai đối tác Nhật Bản và Trung Quốc. Trung Quốc vì con đường vận tải dầu khí của mình vẫn đi qua eo biển Malacca, vốn có thể bị phong tỏa bất cứ lúc nào bởi lực lượng Hải quân một nước khác như Hoa Kỳ nếu có xung đột quân sự; thì luôn phải giải bài toán năng lượng riêng cho mình. Chính vì thế mà đến năm 2010, Trung Quốc đã hoàn thành được đường ống dẫn khí đốt từ Turmenistan và thậm chí còn đạt được kết quả là từ 2012 họ sẽ được cung cấp từ Turmenistan 40 tỷ mét khối khí một ăm và có thể đạt mức từ 60 đến 65 tỷ mét khối một năm trong tương lai. 

Từ năm 2009 Nga và Trung Quốc đã công bố về một thỏa thuận việc cung cấp khí đốt cho Trung Quốc từ hai vùng của Nga: Tây Siberia khoảng 30 tỷ mét khối và Đông Siberia khoảng 38 tỷ mét khối một năm. Nga tính toán việc cung cấp có thể thực hiện được từ khoảng năm 2014 – 2015 nhưng hai bên còn tồn tại bất đồng, chủ yếu là về giá cả. Trong khi Nga thì muốn bán cho Trung Quốc khí đốt giá tương đương giá bán sang Châu Âu, thì Trung Quốc lại mặc cả một giá bán thấp hơn khá nhiều. Không chỉ mua được khí đốt từ các nguồn Trung Á và Australia, Trung Quốc còn bắt đầu tính toán đến dự trữ dầu khí đá phiến trong nước của mình. Hơn nữa, để đảm bảo sẽ không bị phụ thuộc vào các nguồn năng lượng nước ngoài trong tương lai, nhất là nguồn Nga, trong năm này Trung Quốc đã mua 30% cổ phần khai thác và kinh doanh dầu khí của Công ty Gaz de France Suez.


Trong quan hệ với Nga, điều quan tâm chính của Trung Quốc chính là những vùng dầu khí Sakhalin và Đông Siberia, còn Tây Siberia và những vùng cận Trung Á khác, thì họ dành cho sự quan tâm thấp hơn. Tuy nhiên, để phát triển dầu khí vùng Đông Siberia của nước Nga cần rất nhiều vốn đầu tư, và Trung Quốc như một “tay chơi” sẵn sàng đặt tiền và thậm chí sau đó có được cổ phần trong các dự án, nhưng Nga thì không dễ để Trung Quốc “thò chân” vào như vậy. Không chỉ quan tâm đến dầu khí Sakhalin, Trung Quốc còn muốn độc quyền mua dầu khí vùng này của Nga, gạt Nhật Bản và Hàn Quốc ra khỏi cuộc chơi. Lợi dụng quan hệ Nga Nhật xấu đi, Trung Quốc không nhượng bộ Nga về khoản vay ứng trước và nhất là về giá mua khí đốt. Nếu dầu khí Sakhalin-2 được bán cho Trung Quốc thay vì cho Nhật và Hàn Quốc, cũng đồng nghĩa với việc sản phẩm dầu khí của vùng này không sang được với Châu Âu. Trong khi đó “Dự án Phương Đông” của Gazprom được lập năm 2007, khai thác dầu Đông Siberia thì chẳng thực hiện được là bao. Chiến lược của nước Nga là đến năm 2020 dầu khí vùng Viễn Đông hướng tới thị trường Châu Á – Thái Bình Dương có thể tăng trưởng được từ 3 đến 10%; nhưng những khó khăn lớn nhất vẫn là thiếu vốn và công nghệ.

Năm 2008 do cung không đủ cầu, đơn cử sản phẩm của Sakhalin-1 cũng không thể đủ đáp ứng cho thị trường Châu Á – Thái Bình Dương, thị trường trong nước cũng như Châu Âu đều “khát,” Gazprom đã “hy sinh” Trung Quốc. Với vị thế là người cần mua hàng, Trung Quốc tiếp tục “cầu cạnh” Nga để mua được khí đốt. Tháng Năm năm 2011 Chủ tịch Trung Quốc lúc đó là ông Hồ Cẩm Đào đã sang thăm Nga mà một trong những nội dung làm việc của ông, là thỏa thuận mua khí đốt. Tưởng chừng Trung Quốc đã nhượng bộ Nga, chủ yếu là về giá (tháng Tám 2011, giá bán chênh lệch đàm phán là khoảng 100 đô-la Mỹ cho 1000 mét khối, Nga muốn bán với giá 352 đô-la – tương đương giá bán sang Châu Âu còn Trung Quốc thì đề nghị được mua với giá 235 đô-la), nhưng cuối cùng thì thỏa thuận vẫn không đạt được. Không chỉ về giá, hai bên còn không thống nhất được với nhau về nguồn khí đốt: Nga thì muốn bán cho Trung Quốc khí đốt từ Tây Siberia, còn Trung Quốc thì muốn Nga bán cho mình khí đốt từ Đông Siberia và cung cấp vào vùng Đông Bắc công nghiệp phát triển của mình.

Hết phần 1

Bài trên Tuần Việt Nam tại đây

Tham gia thảo luận trên Facebook tại đây 

No comments:

Post a Comment